Văn học trung đại được biết đến qua nhiều bút pháp nghệ thuật nổi bật. Trong đó, bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là một đặc sắc thường thấy trong nhiều tác phẩm. Để hiểu rõ hơn khái niệm tả cảnh ngụ tình là gì, đặc điểm của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được thể hiện qua tác phẩm truyện Kiều như nào…hãy cùng tham khảo ngay bài viết dưới đây của honamphoto.com, chắc chắn bạn sẽ có thêm những kiến thức hữu ích cho mình về bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình!. 

Thế nào là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình?

Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là một thi pháp quen thuộc trong văn học trung đại. Đặc trưng của văn học trung đại là sùng cổ, phi ngã và ước lệ. Ước lệ trong thơ văn trung đại chính là sử dụng hình ảnh tượng trưng để gợi tả nhưng chủ yếu là gợi nhiều hơn tả. Chính vì vậy những bút pháp được sử dụng chủ yếu trong văn học trung đại là bút pháp chấm phá, bút pháp đòn bẩy, bút pháp lấy động tả tĩnh, bút pháp lấy điểm tả diện,… nhưng trong đó nổi bật nhất phải kể đến bút pháp tả cảnh ngụ tình. Tả cảnh ngụ tình chính là bút pháp bằng việc miêu tả cảnh vật thiên nhiên hoặc cuộc sống xung quanh để từ đó khắc họa tâm trạng, suy nghĩ và cảm xúc của chủ thể trữ tình.

Đang xem: Tả cảnh ngụ tình là gì

Có thể thấy, ngụ tình mới là chính còn cái cảnh chỉ nhằm làm nổi bật cái tình.

Bút pháp tả cảnh ngụ tình được sử dụng phổ biến trong các sáng tác trung đại. Bởi lẽ do sự ràng buộc khắt khe về mặt niêm luật, thể thơ nên với một số lượng từ nhất định nhưng lại phải diễn tả được cái tình sâu sắc và khái quát nỗi niềm cả một đời người một kiếp người thì khả năng gợi tả ấy phải đến từ việc sử dụng từ ngữ, bút pháp nghệ thuật. 

Và còn bởi lẽ “ý tại ngôn ngoại” ý nằm ở bề sâu ngôn ngữ ngoài điều tác giả thể hiện trực tiếp trên bề mặt câu chữ. Và còn vì cảnh vật thiên nhiên ấy đều nhuốm màu tâm trạng của nhân vật trữ tình. Cảnh sẽ chỉ là cảnh vật vô hồn nếu nó không được nhìn nhận qua trái tim của nhân vật trữ tình, của chính tác giả. Hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại xuất hiện nhiều trong các tác phẩm văn học cùng với bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. 

Bút pháp tả cảnh ngụ tình là gì trong Truyện Kiều?

Bên cạnh việc sử dụng nhuần nhị thể thơ lục bát dân tộc, điều làm nên sự riêng biệt độc đáo của Truyện Kiều ở phương diện nghệ thuật, còn là tài năng sử dụng các bút pháp nghệ thuật đặc sắc. Trong đó phải kể đến bút pháp tả cảnh ngụ tình. Đây là bút pháp được Nguyễn Du sử dụng với tần số dày đặc trong Truyện Kiều.

Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong Cảnh ngày xuân

Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân, ta thấy chỉ với vỏn vẹn hơn 20 dòng thơ nhưng có thể nói nó đã bộc lộ được cả cuộc đời gian truân sắp đến với Kiều. Mở đầu thiên nhiên ngày xuân là một bức tranh thanh khiết với

“Ngày xuân con én đưa thoi

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi

Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Khung cảnh ngày xuân được hiện ra qua những chuỗi hình ảnh đặc trưng là cánh én, là nắng xuân, là cỏ non, là cành lê. Nhưng mùa xuân được Nguyễn Du lựa chọn không phải là lúc đang độ mới chớm hay xuân sắc xuân thì căng tràn mà ông lại lựa chọn thời điểm cuối xuân. 

Có thể nói cuối xuân thiên nhiên dường như cố gắng bung tỏa những sức sống đang rạo rực còn sót lại để chuẩn bị cho thời khắc giao mùa sắp đến. Ngay cả cái thời điểm tả thiên nhiên ta cũng cảm nhận được một nỗi niềm. Dường như là một sự nuối tiếc “đã ngoài sáu mươi” nghĩa là thời gian tươi đẹp sắp kết thúc. 

Bức tranh thiên nhiên được hiện lên với màu xanh là gam màu chủ đạo. “Cỏ non xanh tận chân trời” có cảm tưởng thảm cỏ thiên nhiên ấy kéo dài đến cuối trời hài hòa cùng với sắc xanh của nền trời. Một khung cảnh bình dị tươi mát hiện lên. Trên khung nền ấy được điểm tô thêm bởi sắc trắng của hoa lê. 

Tượng trưng cho mùa xuân ta thường nghĩ đến hoa mai với màu vàng ấm áp, hoa đào với sắc hồng rạng ngời. Nhưng Nguyễn Du lại lựa chọn điểm tô vào bức tranh xuân của mình bằng hình ảnh của hoa lê trắng. Màu trắng ấy vừa gợi sự thanh khiết và còn là sự trong trắng của tâm hồn người thiếu nữ chỉ vừa “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”. Nhưng hoa lê thanh khiết cao cao tại thượng là thế nhưng cũng rất đỗi mỏng manh dễ tan vỡ. Hoa lê cũng như thân phận người phụ nữ “sắc tài chi lắm cho trời đất ghen”, càng tài sắc lại càng truân chuyên. Có phải vì lẽ đó mà Nguyễn Du đã lựa chọn hoa lê cho bức tranh xuân này.

Không chỉ miêu tả thiên nhiên ông còn miêu tả cảnh sinh hoạt nhộn nhịp của con người:

“Thanh minh trong tiết tháng ba

Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh

Gần xa nô nức yến anh

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân

Dập dìu tài tử giai nhân

Ngựa xe như nước áo quần như nêm”

Khung cảnh ngày hội nhộn nhịp đông vui. Nhưng ta vẫn có cảm giác dường như khung cảnh ấy vẫn thoáng một nét buồn. Khung cảnh nhộn nhịp nhưng không thấy sự xuất hiện của chị em Kiều. Thúy Kiều dường như không hòa mình vào niềm vui ấy. Giữa khung cảnh ấy, Kiều dường như tách bạch ra, nàng lạc lõng trong niềm vui của mọi người. Niềm vui ngoại cảnh không tác động đến tâm trạng của nàng.

Cuối bức tranh là một khung cảnh thiên nhiên, nhưng khung cảnh này không tươi vui đầy sức sống nữa…

“Tà tà bóng ngả về tây

Chị em thơ thẩn dang tay ra về

Nao nao dòng nước uốn quanh

Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”

Khung cảnh xuân được nhìn trong một thời khắc thật buồn. Đó là thời khắc ngày tàn. Mặt trời ngả bóng, cả không gian như chùng xuống. Đó là giây phút con người sống thật với bản thân mình, suy nghĩ về cuộc đời mình. Đến bức tranh này chị em Thúy Kiều Thúy Vân mới xuất hiện trực tiếp trong bức tranh xuân. Nhưng chị em không xuất hiện với những hoạt động vui tươi nhộn nhịp của dòng người đi viếng mộ mà lại xuất hiện trong cảnh ra về dường như xung quanh cũng chẳng còn vui tươi nhộn nhịp như ban ngày. 

Từ láy “nao nao” được sử dụng thật đắc. Đó vừa là cái điệu chảy lững lờ êm trôi của dòng nước nhỏ vừa là tâm trạng xốn xang nhuộm nỗi niềm đầy bâng khuâng, một nỗi buồn vô định thấm đẫm cả đất trời và cả lòng người. Cảnh vật vẫn thế vẫn là những đường nét thanh tao nhưng tâm trạng lòng người đã khác.

Xem thêm: Dưa Lưới Tiếng Anh Là Gì – Tên 24 Loại Quả Trong Tiếng Anh

Sự thay đổi về thời gian sự thay đổi về khung cảnh cũng chính là một ẩn ý đầy dụng tâm của Nguyễn Du. Bởi đó dường như một sự dự báo cho số phận của Kiều. Bức tranh đầu chính là cuộc sống “êm đềm trướng rủ màn che” của Thúy Kiều. Đó là những ngày tháng vô ưu vô lo sống trong sự chở che của cha mẹ. Con bức tranh xuân thứ hai chính là nét gãy khúc trong cuộc đời Kiều. Sóng gió truân chuyên, lận đận sẽ bắt đầu mở ra với cuộc đời nhỏ bé của nàng. Cuộc đời Kiều sẽ rẽ ngang trong một diễn biến khác.

Sau khung cảnh này Kiều sẽ lần lượt gặp những nhân vật có sự tác động với cuộc đời mình. Đó là Kim Trọng – tình đầu khắc cốt ghi tâm, là Đạm Tiên – người tri âm đồng thanh đồng khí. Chỉ vài đường nét thôi nhưng không chỉ là khung cảnh mà trong đó còn là một nỗi niềm xót xa, dự báo tương lai cho cuộc đời người con gái tài hoa bạc phận.

*

Hình ảnh nàng Kiều hồng nhan bạc phận qua ngòi bút tả cảnh ngụ tình

Bút pháp tả cảnh ngụ tình khi Kiều ở lầu Ngưng Bích

Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến phần nào được tái hiện qua cuộc đời bèo nổi của nàng Kiều. Trong những ngày tháng bị giam cầm tại lầu Ngưng Bích, đối diện với Kiều chỉ là nỗi cô đơn. Tuy bị trói chặt nơi lầu Ngưng Bích nhưng tâm hồn, tầm nhìn của nào cũng chỉ hướng ra khung cảnh bên ngoài

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”

Khi phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, ta thấy nàng một mình nơi đất khách quê người, đối diện với bao sóng gió của cuộc đời. Gia đình gặp gia biến, Kiều phải bán mình chuộc cha, đau đớn cắt đứt duyên tình đẹp đẽ của nàng và Kim Trọng. Những tưởng bấy nhiêu sóng gió ấy đã đủ lớn nhưng đau đớn hơn khi Kiều phát hiện hóa ra mình không phải được Mã Giám Sinh lấy làm vợ lẽ mà nàng bị bán vào lầu xanh làm kỹ nữ. Nhục nhã ê chề lại thêm sự bơ vơ nơi đất khách quê người. Nỗi niềm ấy biết tỏ bày cùng ai chỉ đành ký gửi cùng thiên nhiên. 

Nàng luôn hướng tầm nhìn ra xa như một cách để được tự do về mặt tinh thần. Thế nhưng không gian trước mặt rộng lớn cô liêu ấy liệu chăng chính là tương lai vô định đang chờ nàng. “Bẽ bàng” là sự đau đớn, xót xa. “Mây sớm đèn khuya” chính là hình ảnh ước lệ để chỉ sự thay đổi tuần hoàn của thời gian. 

Thời gian lặp lại nào có ý nghĩa gì bởi lẽ tâm trạng của nàng đang đầy trống vắng. Sự tuần hoàn của thời gian tạo vật khiến cho nỗi cô đơn thêm chồng chất nhấn chìm cuộc đời nhỏ bé của nàng. Kiều như đứng tách mình khỏi thời gian, khỏi không gian. Bủa vây nàng chỉ có sự cô đơn. Thiên nhiên dường như cũng hiểu cho nỗi lòng của nàng. Đó là lí do vì sao Nguyễn Du khẳng định

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Thiên nhiên cũng chia sớt nỗi niềm ấy cùng nàng. Nỗi buồn từ thiên nhiên thấm đẫm vào lòng người hay ngược lại nỗi buồn của lòng người thẩm thấu vào thiên nhiên.

“Buồn cảnh cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trôi nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”

Điệp ngữ “buồn trông” được lặp lại nhiều lần nhằm nhấn mạnh nỗi buồn và ánh nhìn xa xăm của Kiều. Mỗi lần lặp lại đều là kết hợp với những hình ảnh thiên nhiên. Thiên ấy nên thơ với những đường nét thanh tú của cửa bể, cánh buồm, ngọn nước, hoa trôi, nội cỏ và tiếng sóng. Nhưng điểm chung những sự vật ấy chính là chúng đều nhỏ bé đều trôi nổi trên dòng đời bấp bênh không sao tự định đoạt được. Và đó cũng chính là dự báo cho cuộc đời Kiều. Một cuộc đời bấp bênh bị dòng đời xô đẩy. 

“Hoa trôi man mác biết là về đâu?” cánh hoa dù tươi đẹp nhưng trước dòng sông ấy cánh hoa chỉ đành bất lực, bởi lẽ dù có cố gắng chống cự thì kết quả vẫn vô vọng vẫn chỉ có thể trôi theo dòng chảy đã được định sẵn. Dòng sông hay chính là cuộc đời, cánh hoa hay chính thân phận con người tài hoa bạc mệnh. Tiếng sóng ầm ầm như giận dữ như gào thét. Phong ba rồi sẽ nổi lên nhấn chìm cuộc đời nàng. Thiên nhiên ấy là tượng trưng cho lý thuyết tài mệnh tương đố đeo bám cả cuộc đời những con người tài hoa bạc phận.

Đánh giá tác dụng của biện pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình 

Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là một bút pháp quen thuộc. Nhưng mỗi nhà thơ đều có cách sử dụng riêng độc đáo để phục vụ cho mục đích sáng tác của thi nhân. Khung cảnh vừa là một phần làm phông nền cho diễn biến cốt truyện để làm nổi bật nhân vật mà đó còn là một nhân vật trữ tình mà tác giả gửi gắm thông điệp. Khung cảnh thiên nhiên luôn phảng phất ẩn chứa nỗi niềm của thi nhân. 

Muốn hiểu sâu tác phẩm thì người đọc cần nhìn nhận chiêm nghiệm mỗi khung cảnh để nhận ra dụng ý của nhà thơ. Mỗi khung cảnh không chỉ tái hiện được thế giới trong tác phẩm mà còn là góc nhìn cách nghĩ của thi nhân. Và đây còn là một nét đẹp nghệ thuật của văn học trung đại, trở thành một thủ pháp đặc trưng làm nên những kiệt tác sống mãi với thời gian.

Xem thêm: Duty Free Shop Là Gì – Từ Điển Anh Việt Duty

Bất kỳ thủ pháp nghệ thuật nào nói chung và bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình nói riêng đều thể hiện được tài năng và nỗi lòng của nhà thơ. Nó cho thấy sự liên kết trong mỗi chi tiết được bàn tay người nghệ sĩ tạo dựng đầu công phu. Vì vậy khi đọc những tác phẩm ta đừng bỏ qua những yếu tố nhỏ như khung cảnh thiên nhiên, khung cảnh sinh hoạt vì nó cũng là một ẩn ý của thi nhân chờ chúng ta lý giải.

Như vậy, bài viết trên đây về chủ đề bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã cung cấp cho bạn những thông tin hữu ích. Hy vọng bạn đã tìm thấy câu trả lời cho mình qua nội dung của bài viết của honamphoto.com. Nếu có bất cứ câu hỏi hay băn khoăn liên quan đến chủ đề nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, đừng quên để lại ở nhận xét bên dưới để cùng chúng tôi trao đổi thêm nhé. Chúc bạn luôn học tập tốt!. 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *