Nghe tim đòi hỏi thính giác tốt và khả năng phát hiện được khác biệt rất nhỏ về độ cao và thời gian. Nhân viên y tế có thính giác kém có thể sử dụng ống nghe có khả năng khuếch đại. Âm tần số cao được nghe tốt nhất bằng phần màng của ống nghe. Âm thanh tần số thấp được nghe tốt nhất với phần chuông. Chỉ nên ấn nhẹ ống nghe khi dùng phần chuông. Khi ấn mạnh, da bệnh nhân sẽ trở thành phần màng và làm mất các âm thanh tần số thấp.

Đang xem: Tiếng thổi tâm thu là gì

Toàn bộ thành ngực trước tim cần được thăm khám một cách hệ thống, thường bắt đầu bằng khám mỏm tim đập với bệnh nhân ở tư thế nghiêng trái. Khi bệnh nhân nằm ngửa, việc nghe tim được tiếp tục từ phía dưới bờ trái xương ức, sao đó đi từng khoang liên sườn một về phía đầu, rồi lại đi dần xuống dưới từ phần trên bở phải xương ức. Cần phải nghe cả hõm nách trái và hõm trên xương đòn. Ở tư thế ngồi thẳng, bệnh nhân được nghe phía lưng, sau đó bệnh nhân nghiêng ra trước để hỗ trợ nghe các tiếng thổi thì tâm trương ở van động mạch chủ, động mạch phổi hoặc tiếng cọ màng ngoài tim.

Tiếng tim là những âm thanh ngắn, thoáng qua khi van đóng mở; bao gồm các tiếng thì tâm thu và tâm trương.

Tiếng thổi tạo bởi dòng máu di chuyển xoáy ốc, kéo dài hơn tiếng tim thông thường, có thể ở thì tâm thu, tâm trương hoặc liên tục. Tiếng thổi được phân độ theo cường độ và mô tả theo vị trí cũng như thời điểm nghe được trong chu kỳ tim(xem Bảng: Phân độ tiếng thổi).

*

Tiếng cọ là những âm sắc cao, nghe xột xoạt, có 2 hoặc 3 phần; nếu tim nhanh có thể nghe gần như một tiếng liên tục.

Bác sĩ cần tập trung vào từng giai đoạn của chu kỳ tim, ghi nhận từng tiếng tim và tiếng thổi. Cường độ, độ cao, độ dài và thời gian của âm thanh và khoảng cách giữa chúng được phân tích thường giúp chẩn đoán chính xác. Cần ghi lại các triệu chứng phát hiện được khi nghe và sờ vùng trước tim Khám thực thể tim mạch : Sờ vùng ngực lên biểu đồ của bệnh nhân mỗi khi thăm khám tim mạch (xem Hình: Biểu đồ triệu chứng thực thể ở bệnh nhân hẹp van động mạch chủ và nhồi máu cơ tim.). Với biểu đồ như vậy, có thể so sánh các kết quả từ mỗi lần kiểm tra.

Tiếng thổi, đặc điểm, cường độ, và hướng lan được miêu tả. Tiếng đóng van động mạch phổi vượt quá tiếng đóng van động mạch chủ. Tổng máu thất trái (LV) và đổ đầy thất phải (RV) (mũi tên đậm) được xác định. Tiếng tim thứ 4 (S4) và rung tâm thu (TS) xuất hiện. a = tiếng đóng van động mạch chủ; p = tiếng đóng van động mạch phổi; S1 = tiếng tim đầu tiên; S2= tiếng tim thứ hai; 3/6 = cấp độ tiếng thổi tăng-giảm (lan ra hai bên cổ); 2/6 = cấp độ tiếng thổi tăng dần toàn tâm thu; 1+= vùng trước tim vồng nhẹ do phì đại thất phải (mũi tên cho thấy hướng vồng); 2+= tống máu thất trái trung bình (mũi tên chỉ hướng đẩy).

*

S1 và S2 (tiếng tim thứ hai, nghe ở thì tâm trương) là các tiếng tim bùm-tặc thông thường nghe được trong chu kỳ tim.

S1 xảy ra ngay sau khi bắt đầu thì tâm thu, chủ yếu do sự đóng van hai lá, có thể có góp phần của van ba lá. Tiếng này thường tách đôi và có âm sắc cao. S1 đanh trong bệnh lý hẹp hai lá. Tiếng này thường nhẹ hoặc không có trong trường hợp hở ha lá do lá van xơ, cứng, tuy nhiên vẫn nghe được trong hở hai lá do thoái hóa nhầy của phức hợp van hai lá hoặc bất thường cơ tim (ví dụ rối loạn chức năng cơ nhú, giãn tâm thất)

Tiếng clíc chỉ nghe được ở thì tâm thu; phân biệt với S1 và S2 bởi âm sắc cao hơn và thời gian ngắn hơn. Một số tiếng clíc nghe được ở những thời điểm khác nhau trong thời kỳ tâm thu do thay đổi huyết động. Tiếng clíc có thể đơn độc hoặc có nhiều tiếng.

Tiếng clíc trong hẹp van động mạch chủ hoặc động mạch phổi bẩm sinh được cho là do bất thường sức căng tâm thất. Những tiếng clíc này nghe được ở đầu tâm thu (rất gần S1) và không bị ảnh hưởng bởi thay đổi huyết động . Các tiếng clíc tương tự có thể nghe được trong tăng áp động mạch phổi nặng. Tiếng clíc trong sa van hai lá hoặc ba lá thường nghe được ở giữa hoặc cuối tâm thu, được cho là do lực căng bất thường lên các dây chằng cột cơ bị kéo dãn hoặc lên các lá van.

Xem thêm: Trường Công Lập Là Gì – Điểm Khác Giữa Trường Công Lập

Tiếng clíc do thoái hóa nhầy lá van có thể nghe được ở bất kì thời điểm nào trong thì tâm thu nhưng sẽ lại gần S1 hơn khi thực hiện các nghiệm pháp làm giảm tạm thời đổ đầy tâm thất (ví dụ đứng lên hoặc nghiệm pháp Valsalva). Tiếng clíc dịch chuyển về S2 nếu thể tích đổ đầy tâm thất tăng (ví dụ khi bệnh nhân nằm xuống), đặc biệt trong sa van hai lá. Vì các lý do chưa rõ ràng, đặc điểm của tiếng clíc có thể thay đổi rất nhiều giữa các lần thăm khám, tiếng này có thể xuất hiện và biến mất.

Khác với các tiếng thì tâm thu, tiếng tim tâm trương thường có âm sắc thấp, nghe nhẹ hơn và kéo dài hơn. Ngoại trừ S2, những tiếng khác thường là bất thường ở người lớn, mặc dù S3 sinh lý có thể gặp trước 40 tuổi và trong thai kỳ.

S2 nghe được ở đầu tâm trương, do đóng van động mạch chủ và van động mạch phổi. Thông thường, van động mạch chủ đóng trước van động mạch phổi, trừ khi van động mạch chủ đóng muộn hoặc van động mạch phổi đóng sớm. Van động mạch chủ bị đóng muộn trong block nhánh trái hoặc hẹp chủ; van động mạch phổi đóng sớm trong một số dạng của hiện tượng tiền kích thích. Van động mạch phổi đóng muộn còn gặp trong trường hợp dòng máu qua thất phải tăng (ví dụ thông liên nhĩ lỗ thứ hai) hoặc block nhánh phải hoàn toàn. Tăng lưu lượng thất phải trong thông liên nhĩ còn làm mất sự thay đổi tự nhiên theo hô hấp giữa hai thành phần chủ-phổi dẫn đến tiếng S2 cố định. Shunt trái-phải nhưng lưu lượng máu qua thất phải không tăng (ví dụ trong thông liên thất phần màng) không gây S2 tách đôi cố định. Tiếng S2 không tách đôi có thể gặp trong hở chủ, hẹp chủ nặng hoặc không có van (trong thân chung động mạch chỉ có một van tim chung).

S3 nghe được ở đầu tâm trương, khi tâm thất dãn ra và không đàn hồi. Tiếng này xảy ra trong giai đoạn đổ đầy thất thụ động và thường gợi ý rối loạn chức năng tâm thất nặng ở người lớn; ở trẻ em có thể nghe được tiếng S3 sinh lý tới tận 40 tuổi. S3 cũng có thể bình thường trong thời kỳ mang thai. Tiếng S3 thất phải nghe được rõ nhất (đôi khi duy nhất) khi hít vào (do áp lực âm lồng ngực làm tăng đổ đầy thất phải) và bệnh nhân nằm ngửa. Tiếng S3 thất trái nghe được rõ nhất khi bệnh nhân thở ra và nằm nghiêng trái (do tim nằm sát thành ngực nhất).

S4 tạo ra do đổ đầy thất chủ động khi tâm nhĩ co, nghe được ở gần cuối thì tâm trương. Tiếng này nghe giống S3 và nghe rõ nhất khi dùng phần chuông. Khi hít vào, tiếng S4 thất phải rõ hơn còn tiếng S4 thất trái mờ đi. S4 thường gặp hơn S3 và thẻ hiện mức độ suy giảm chức năng tâm thất (thường là tâm trương) ít hơn. S4 không nghe được trong rung nhĩ (do tâm nhĩ không co bóp), tuy nhiên gần như luôn nghe thấy trong thiếu máu cơ tim tiến triển hoặc ngay sau nhồi máu cơ tim.

S3, có hay không đi kèm S4, thường gặp trong rối loạn chức năng tâm thu thất trái nặng; S4 không đi kèm S3 thường gặp ở rối loạn chức năng tâm trương thất trái.

Tiếng ngựa phi kết hợp xảy ra khi S3 và S4 có mặt trên một bệnh nhân nhịp tim nhanh, thời gian tâm trương bị rút ngắn khiến hai tiếng hòa làm một. Tiếng S3 và S4 lớn có thể sờ được ở mỏm tim khi bệnh nhân nằm nghiên trái.

Tiếng gõ tâm trương xảy ra cùng một lúc với S3, vào đầu tâm trương. Tiếng này không đi kèm S4 và to, dồn dập hơn, thể hiện thì đổ đầy thất bị gián đoạn đột ngột do màng ngoài tim co thắt.

Tiếng clắc mở van gặp trong đầu tâm trương ở bệnh nhân hẹp hai lá và đôi khi ở hẹp ba lá. Tiếng clắc mở van hai lá có âm sắc rất cao, ngắn, nghe rõ nhất bằng phần màng ống nghe. Van hai lá càng hẹp nặng (tức áp lực nhĩ trái càng tăng) thì tiếng clắc mở van càng gần thành phần van động mạch phổi của S2. Cường độ tiếng này phụ thuộc vào độ đàn hồi lá van: tiếng clắc mạnh khi lá van còn đàn hồi, tuy nhiên yếu dần và mất hẳn khi lá van xơ hóa, vôi hóa. Tiếng clắc mở van hai lá nghe rõ nhất ở phần thắp bờ trái xương ức, dù đôi khi cũng nghe được ở mỏm tim.

Xem thêm: Từ Clgt Có Nghĩa Là Gì ? Ý Nghĩa Của Từ Viết Tắt Clgt

Thời điểm của tiêng thổi trong chu kỳ tim gợi ý nguyên nhân (xem Bảng: Nguyên nhân của tiếng thổi theo thời điểm trong chu kỳ tim); tính chất tiếng thổi gợi ý đến tổn thương van cụ thể. các nghiệm pháp (ví dụ hít vào, nghiệm pháp Valsalva, ngồi xổm, hít amyl nitrate) có thể làm thay đổi chút ít sinh lý tim và giúp phân biệt các nguyên nhân gây tiếng thổi (xem Bảng: Các nghiệm pháp hỗ trợ chẩn đoán nguyên nhân tiếng thổi).

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *