Cá hồi là gì ? Tổng thể các loại cá hồi trên thế giới
Định nghĩa về cá hồi
Cá hồi là gì ? Cá hồi là tên chung cho nhiều loài cá thuộc họ Salmonidae. Nhiều loại cá khác cùng họ được gọi là trout (cá hồi); sự khác biệt thường được cho là cá hồi salmon di cư còn cá hồi trout không di cư, nhưng sự phân biệt này không hoàn toàn chính xác.
Đang xem: Cá hồi là cá nước gì
Cá hồi sống dọc các bờ biển tại cả Bắc Đại Tây Dương (các họ di cư Salmo salar) và Thái Bình Dương (khoảng sáu họ của giống Oncorhynchus), và cũng đã từng được đưa tới Hồ lớn ở Bắc Mỹ. Cá hồi được sản xuất nhiều trong ngành nuôi trồng thủy sản ở nhiều nơi trên thế giới.
cá hồi trout
Về đặc trưng, cá hồi là cá ngược sông để đẻ: chúng sinh ra tại khu vực nước ngọt, di cư ra biển, sau đó quay trở lại vùng nước ngọt để sinh sản. Tuy nhiên, có nhiều con thuộc nhiều loài sống cả đời tại vùng nước ngọt. Truyền thống dân gian cho rằng loài cá này trở về đúng nơi chúng được sinh ra để đẻ trứng; những cuộc nghiên cứu đã cho thấy điều này là chính xác, và hành động quay lại nơi ra đời này đã được thể hiện phụ thuộc vào ký ức khứu giác.
Thuật ngữ salmon xuất xứ từ chữ La tinh salmo, và chữ này lại có gốc từ salire, có nghĩa “nhảy”. Có chín loài cá hồi thương mại quan trọng, thuộc hai giống. Giống thứ nhất Salmon, có cá hồi Đại Tây Dương, có ở Bắc Đại Tây Dương. Giống thứ hai, Oncorhynchus, gồm tám loài chỉ có trong tự nhiên tại Bắc Thái Bình Dương. Cũng có một họ cá hồi Trung Quốc được đưa vào New Zealand. Theo nhóm chúng được gọi là cá hồi Thái Bình Dương.
cá hồi Đại Tây Dương
Các loại Cá hồi Đại Tây Dương căn bản
Cá hồi Đại Tây Dương Salmo salar Linnaeus | 150 cm – 120 cm | 46.8 kg | tuổi trung bình 13 năm
Cá hồi Chinook Oncorhynchus tshawytscha | 150 cm – 70 cm | 61.4 kg | tuổi trung bình 9 năm
Cá hồi Chum Oncorhynchus keta | 100 cm – 58 cm |15.9 kg | 7 năm
Coho salmon Oncorhynchus kisutch | 108 cm – 71 cm | 15.2 kg | 5 năm
Các loạọ Cá hồi Thái Bình Dương
Cá hồi hồng Oncorhynchus gorbuscha | 76 cm – 50 cm | 6.8 kg | 3 năm
Cá hồi Sockeye Oncorhynchus nerka | 84 cm – 58 cm | 7.7 kg | 8 năm
Cá hồi Masu Oncorhynchus masou | 79.0 cm | 10.0 kg
Sự phân bổ cá hồi
Cá hồi Đại Tây Dương, (Salmo salar) sinh sản tại những dòng sông phía bắc ở cả hai bờ Đại Tây Dương. Cá hồi lục địa (Salmo salar m. sebago) sống tại một số hồ ở phía đông Bắc Mỹ và Bắc Âu, ví dụ tại các hồ Onega, Ladoga, Saimaa và Vänern. Chúng không phải là một loài khác với cá hồi Đại Tây Dương, nhưng đã tiến hóa độc lập một chu kỳ sống không di cư, và chúng vẫn duy trì nó thậm chí khi có thể đi ra biển.
Cá hồi lục địa
Cá hồi Masu hay cherry salmon (Oncorhynchus masou) chỉ được tìm thấy ở tây Thái Bình Dương tại Nhật Bản, Triều Tiên và Nga. Cũng có các phụ loài sống trong lục địa được gọi là cá hồi Đài Loan hay cá hồi Formosan (Oncorhynchus masou formosanus) ở Suối Chi Chia Wan miền trung Đài Loan.
cá hồi Formosan
Cá hồi Chinook (Oncorhynchus tshawytscha) cũng được gọi là cá hồi vua hay cá hồi miệng đen ở Mỹ, và là cá hồi xuân ở British Columbia. Cá hồi Chinook là loài cá hồi Thái Bình Dương lớn nhất, thường vượt quá 30 lb (14 kg). Cái tên Tyee được dùng ở British Columbia để chỉ cá hồi Chinook hơn 30 pound, và tại lưu vực sông Sông Columbia những con cá hồi Chinook đặc biệt lớn được gọi là June Hogs. Cá hồi Chinook được biết có thể bơi đến tận Sông Mackenzie và Kugluktuk ở miền trung vòng bắc cực Canada, và xa tới tận miền nam Bờ biển Trung California.
Cá hồi Chinook
Cá hồi Chum (Oncorhynchus keta) được biết đến như một loại cá hồi dog, keta, hay calico ở nhiều vùng tại Mỹ. Loài này có tầm hoạt động địa lý rộng nhất trong các loài cá hồi Thái Bình Dương: phía nam tới tận Sông Sacramento ở California và đông Thái Bình Dương và đảo Kyūshū tại Biển Nhật Bản ở phía tây Thái Bình Dương; phía bắc tới Sông Mackenzie ở Canada, phía đông tới Sông Lena, phía tây tới Siberia.
Cá hồi Chum
Cá hồi Coho (Oncorhynchus kisutch) cũng được gọi là cá hồi bạc ở Mỹ. Loài này được tìm thấy ở tất cả các vùng nước ven biển Alaska và British Columbia và ở phía nam xa tới tận miền trung California (Vịnh Monterey).<45> Nó cũng xuất hiện, dù không thường xuyên, tại Sông Mackenzie.
Cá hồi Coho
Cá hồi hồng (Oncorhynchus gorbuscha), được gọi là cá gù ở đông nam và tây nam Alaska, được thấy ở miền bắc California và Triều Tiên, trên toàn vùng bắc Thái Bình Dương, và từ Sông Mackenzie ở Canada tới Sông Lena ở Siberia, thường tại những dòng suối bờ biển ngắn. Nó là loài cá hồi Thái Bình Dương nhỏ nhất, với trọng lượng trung bình 3 1⁄2–4 lb (1,6–1,8 kg).
Xem thêm: Cách Sử Dụng Hàm Int Là Hàm Gì, Int (Hàm Int), Cách Sử Dụng Hàm Int
Cá hồi hồng
Cá hồi Sockeye (Oncorhynchus nerka) cũng được gọi là cá hồi đỏ ở Mỹ. Loài cá được nuôi ở hồ này có ở miền nam xa tới tận Sông Klamath ở California ở phía đông Thái Bình Dương và bắc đảo Hokkaidō tại Nhật Bản và ở phía tây Thái Bình Dương xa tới tận Vịnh Bathurst ở Vòng Bắc Cực Canada ở phía đông và Sôn Anadyr tại Siberia ở phía tây. Dù hầu hết cá hồi Thái Bình Dương trưởng thành ăn các loại cá nhỏ, tôm và mực ống; sockey ăn sinh vật phù du được chúng lọc qua những khe mang. Cá hồi Kokanee là loại cá sockeye sống trong lục địa.
Cá hồi Sockeye
Cá hồi Danube hay huchen (Hucho hucho), là loại cá thuộc dòng cá hồi lớn nhất sống thường trực tại vùng nước ngọt.
Vòng đời của cá hồi Thái Bình Dương
Trứng ở những giai đoạn phát triển khác nhau. Trong một số chứng chỉ vài tế bào phát triển phía trên noãn hoàn, ở phía dưới bên phải các mạch máu bao quanh noãn hoàn và ở phía trên bên trái có thể thấy những con mắt đen, thậm chí là cả thủy tinh thể nhỏ
Cá hồi đang phát triển — cá con đã lớn quanh phần còn lại của noãn hoàn — những phần nhìn thấy là các động mạch quanh moãn hoàn và những giọt dịch nhỏ cũ, cả ruột, xương sống, mạch máu đuôi chính, bàng quang và các cung của mang
Trứng cá hồi được đẻ tại những dòng suối nước ngọt thông thường ở nơi có độ cao lớn. Trứng phát triển thành cá bột hay bọc trứng (sac fry). Cá mới nở nhanh chóng phát triển thành cá con với những dải ngụy trang dọc. Cá con ở lại dòng suối quê hương trong sáu tháng tới ba năm trước khi trở thành cá non, được phân biện bởi màu sáng bạc với các vảy có thể dễ dàng bóc. Ước tính chỉ 10% trứng cá hồi sống sót tới giai đoạn này. Tính chất hóa học cơ thể của cá con thay đổi, cho phép chúng sống trong nước mặn. Cá hồi con dành một phần thời gian di cư để sống ở vùng nước lợ, tính chất hóa học cơ thể của chúng trở nên quen thuộc với điều kiện thẩm thấu tại đại dương.
Trứng cá hồi
Cá hồi dành khoảng một tới năm năm (tùy theo loài) ở biển khơi nơi chúng dần trưởng thành về giới tính. Cá hồi trưởng thành sau đó đa số quay lại dòng suối quê hương để đẻ trứng. Tại Alaska, sự trao đổi chéo với dòng suối khác cho phép cá hồi tới sinh sống tại những dòng suối mới, như những con cá xuất hiện khi một sông băng rút lui. Phương pháp chính xác cá hồi dùng để định hướng vẫn chưa được xác định, dù khứu giác tốt của chúng có liên quan. Cá hồi Đại Tây Dương dành từ một tới bốn năm ở biển. (Khi một con cá quay về sau chỉ một năm sống ở biển được gọi là grilse ở Canada, Anh và Ireland.)
Trước khi đẻ trứng, tùy thuộc theo loài, cá hồi trải qua sự thay đổi. Chúng có thể phát triển một cái bướu, mọc răng nanh, phát triển một bướu gù (một sự uốn cong của hàm ở cá hồi đực). Tất cả sẽ chuyển từ màu xanh bạc của cá nước ngọt ra sống ở biển sang một màu tối hơn. Cá hồi có thể thực hiện những chuyến đi đáng kinh ngạc, thỉnh thoảng di chuyển hàng trăm dặm ngược dòng nước chảy nhanh và mạnh để đẻ trứng. Ví dụ, cá hồi Chinook và sockeye từ miền trung Idaho di chuyển 900 dặm (1.400 km) và lên cao xấp xỉ 7.000 foot (2.100 m) từ Thái Bình Dương khi chúng quay về để đẻ trứng. Sức khỏe của chúng kém đi khi chúng càng sống lâu trong nước ngọt, và càng kém nữa saiu khi chúng đẻ trứng, khi chúng được gọi là kelt.
Ở mọi loài cá hồi Thái Bình Dương, các cá nhân trưởng thành chết trong vòng vài ngày hay vài tuần sau khi đẻ trứng, một đặc điểm được gọi là semelparity. Khoảng 2% tới 4% cá hồi Đại Tây Dương cái sống sót để đẻ trứng lần nữa. Tuy nhiên, ở những loài cá hồi có thể đẻ trứng hơn một lần này (iteroparity), tỷ lệ chết sau khi đẻ khá cao (có lẽ lên tới 40 tới 50%.)
Để đẻ bọc trứng, cá hồi cái dùng đuôi (vây đuôi), để tạo một vùng áp suất thấp, khiến sỏi trôi xuôi dòng, tạo một hố lõm nông, được gọi là một redd (tổ cá hồi). Hố redd có thể thỉnh thoảng chứa 5.000 trứng rộng 30 foot vuông (2,8 m2).<50> Trứng thường có màu cam tới đỏ. Một hay nhiều con đực bơi cạnh con cái, phun tinh trùng, hay tinh dịch (milt), lên trứng.<48> Sau đó con cái đẩy sỏi phía đầu dòng phủ trứng trước khi bơi đi tạo một tổ redd khác. Con cái sẽ làm thậm chí tới bảy redd trước khi hết trứng.
Mỗi năm, con cá trải qua một giai đoạn phát triển nhanh, thường vào mùa hè, và một giai đoạn phát triển chậm, thường vào mùa đông. Việc này tạo ra các hình vòng tròn quanh xương tai được gọi là otolith, (annuli) tương tự với các vòng tăng trưởng ở thân cây. Giai đoạn tăng trưởng ở nước ngọt là những vòng dày đặc, giai đoạn tăng trưởng ở biển là những vòng rộng; việc đẻ trứng được đánh dấu bằng sự ăn mòn đáng kể khi khối lượng cơ thể được chuyển thành trứng và tinh dịch.
Các dòng suối nước ngọt và các cửa sông cung cấp môi trường sống quan trọng cho nhiều loài cá hồi. Chúng ăn cả côn trùng sống trên cạn, côn trùng sống dưới nước và côn trùng lưỡng cư, và các loại giáp xác khi còn nhỏ, và chủ yếu ăn các loại cá khác khi lớn. Trứng được đẻ ở những vùng nước sâu hơn với những viên sỏi lớn hơn, và cần nước mạt và dòng chảy mạnh (để cung cấp ôxi) để phôi phát triển.
Xem thêm: Lá Gan Tiếng Anh Là Gì ? Gắn Trong Tiếng Tiếng Anh
Tỷ lệ chết ở cá hồi trong những giai đoạn sống đầu tiên thường cao vì bị ăn thịt tự nhiên và những thay đổi do con người tác động tới môi trường sống của chúng, như sự lắng bùn, nhiệt độ nước cao, tập trung ôxi thấp, mất các lùm cây tại suối, và giảm tốc độ dòng chảy của sông. Các cửa sông và các vùng đất ướt gần chúng cung cấp môi trường phát triển sống còn cho cá hồi trước khi di cư ra biển khơi. Các vùng đất ướt không chỉ là nơi đệm cho cửa sông khỏi phù sa và các chất ô nhiễm, mà còn là những khu vực sinh sống và ẩn nấp quan trọng.
Cá hồi không bị chết bởi các phương tiện khác đối mặt với tình trạng giảm sút sức khỏe tăng tốc rất nhanh (phenoptosis, hay “tình trạng già hóa đã được lập trình”) ở cuối đời. Thân thể chúng nhanh chóng bị phân rã ngay sau khi đẻ trứng, là hậu quả của việc giải phóng những lượng lớn