Trong thời gian gần đây, khi tôi kiểm tra các thông số truy cập vào website của mình, tôi chợt nhận thấy bài viết này luôn đứng trong top những bài được đọc nhiều nhất trong website của tôi, đồng thời cũng có nhiều bạn comment hỏi đáp về những vấn đề liên quan đến debit và credit card. Điều này cho thấy ngày càng có nhiều bạn ở Việt Nam quan tâm đến những hình thức giao dịch hiện này hơn. Phải nói thật tôi không phải là một chuyên gia tài chính mà chỉ là một người thích và hay sử dụng các dịch vụ tài chính (cụ thể là các loại thẻ tín dụng) vì thế mà tôi có một chút ít hiểu biết về vấn đề này. Chính vì thế mà tôi đã viết lại bài viết này cho hoàn chỉnh hơn trên cơ sở bài mà tôi đã sưu tầm với một số nội dung cập nhật.
Đang xem: Credit card statement là gì
Debit card, credit card, bạn biết gì về nó?
Trong các giao dịch thương mại cổ điển, việc thanh toán được thực hiện bằng tiền mặt (cash). Vì vận chuyển tiền mặt kèm theo nhiều rủi ro và bất tiện, người ta đã nghĩ ra các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt, điển hình là thanh toán bằng séc (cheque), bằng thẻ (card) và bằng các phương thức viễn thông khác như telegraphic transfer (TTR).
Séc là tờ giấy in theo lối đặc biệt của mỗi ngân hàng qua đó một người (drawer) lệnh cho ngân hàng trả cho người ghi tên trên séc (payee) hoặc người cầm tờ séc (bearer) một số tiền ghi trên tờ séc (mệnh giá). Séc có thể do người chủ 1 tài khoản ở ngân hàng phát hành, trong trường hợp này ngân hàng chỉ thực hiện thanh toán nếu trong tài khoản có đủ tiền để thực hiện giao dịch, nếu không séc sẽ bị gửi trả lại cho payee, gọi là cheque bounce hay la cheque return unpaid, với remark là refer to drawer.Séc có thể do ngân hàng phát hành, ngân hàng là drawer (khi đó goi là banker’s cheque), bên trả tiền là ngân hàng, trong trường hợp này việc thanh toán đảm bảo hơn vì ngân hàng luôn có đủ tiền để thanh toán. Để có thể phát hành séc, bạn phải mở tài khoản current account ở ngân hàng và mua sổ séc (blank cheque book). Ngoài ra những người đi du lịch sợ bị trộm cướp thường mua séc du lịch (travelers’ cheque), do các tổ chức thanh toán quốc tế (e.g American Express) phát hành, drawer là tổ chức đó, payee chính là người mua séc, mệnh giá thường là cố định (e.g. 100, 200, 500, 1000USD). Du khách này khi đến các nước sẽ tìm đến các ngân hàng, hoặc chi nhánh các tổ chức thanh toán như Thomas Cook đổi séc du lịch thành tiền mặt để tiêu ở địa phương.
Thẻ là một miếng plastic có kích thước tiêu chuẩn và có một dải băng từ ở mặt sau ghi thông tin về thẻ và chủ của thẻ, cũng có thể có chip điện tử để ghi các thông tin phụ thêm khác. Thẻ thường do các ngân hàng phát hành cho khách hàng của mình để phục vụ cho việc thanh toán. Một ngân hàng có số chi nhánh có hạn và việc thanh toán thường thực hiện giữa các ngân hàng khác nhau, vì thế có các tổ chức thanh toán quốc tế như VISA, MasterCard, American Express, Delta, vv.. hoặc các tổ chức thanh toán liên ngân hàng trong nội địa một nước như NETS của Singapore. Các tổ chức này có biểu tượng (logo) riêng để phân biệt dịch vụ của họ với nhau.
Vậy các tổ chức thanh toán này có chức năng gì? Họ đứng ra làm trung gian chuyển tải thông tin và giúp việc thanh toán giữa các ngân hàng. Các ngân hàng là thành viên của tổ chức thanh toán nào thì có thể nhận thanh toán bằng các loại thẻ có biểu tượng của tổ chức đó và thường đặt biển hiệu rõ ràng thể hiện những loại thẻ họ có thể nhận thanh toán. Các ngân hàng này cũng có thể phát hành thẻ theo điều kiện của tổ chức thanh toán mà họ là thành viên, thẻ đó được chấp nhận để thanh toán ở các ngân hàng thành viên khác trong cùng tổ chức.
Thẻ được chia ra nhiều loại tùy theo tính năng tác dụng của thẻ. Thẻ tín dụng (Credit Card) thực chất là bằng chứng của một mối quan hệ vay nợ giữa người cầm thẻ (Cardholder) và ngân hàng. Ngân hàng hay tổ chức tín dụng phát đồng ý cho Cardholder vay tiền đến một mức tối đa nào đó (gọi là credit limit), thường là khoảng 2 lần thu nhập hàng tháng của Cardholder (con số này không cố định, tùy thuộc vào policy của từng tổ chức). Thỏa thuận như vậy tức là Cardholder có một số tiền sẵn sàng để dùng khi cần được lưu trong tài khoản tín dụng. Khi thực hiện giao dịch với một cửa hàng nào đó, họ sẽ rút tiền từ tài khoản credit này và ghi vào bảng ghi giao dịch của tài khoản (gọi là các statement). Đến một ngày nhất định mỗi tháng, ngân hàng sẽ gửi Statement đến cho Cardholder, thống kê tổng số tiền đã chi trong tháng trước đó và yêu cầu Cardholder thanh toán số tiền nợ này (đã dùng số tiền bao nhiêu thì thanh toán số đó). Thông thường, Cardholder không nhất thiết phải thanh toán ngay lập tức mà họ sẽ có khoảng từ nửa tháng đến 45 ngày để chuẩn bị thanh toán đó. Thời hạn thanh toán gọi là Due date. Cardholder có thể chọn thanh toán toàn bộ số tiền trước Due date ghi trong Statement, khi đó Cardholder không phải trả lãi (interest). Nếu không Cardholder có thể trả số tiền tối thiểu (Minimum Payment), thường là khoảng 5% số tiền nợ, phần còn lại có thể trả từ từ, tất nhiên là ngân hàng sẽ tính lãi, thường là từ 12% đến 24% một năm, tiền lãi tính từng ngày. Nếu sau Due date mà cardholder vẫn chưa thanh toán một khoản minimum nào, cardholder thường bị phạt một số tiền, cộng với việc tính lãi cho số tiền đang nợ. Số tiền phạt này tùy thuộc vào thỏa thuận trước đó khi phát hành thẻ.
Xem thêm: Vai Trò Giới Là Gì Và Nó Ảnh Hưởng Thế Nào Tới Nam Và Nữ? Sự Khác Nhau Giữa Giới Tính Và Giới
Vậy việc thanh toán bằng thẻ tín dụng xảy ra thế nào? Giả sử bạn có thẻ VISA. Một lần bạn đến một cửa hàng (Merchant) thấy có logo của VISA thể hiện cửa hàng nhận thanh toán bằng thẻ VISA, bạn mua hàng và yêu cầu thanh toán bằng thẻ của mình. Cửa hàng sẽ quẹt (swipe) thẻ của bạn vào một chiếc máy đọc (gọi là EDCT – Electronic Data Capture Terminal). EDCT đọc các thông tin về thẻ của bạn ghi trên băng từ và contact ngân hàng của cửa hàng (Merchant’s Bank) thông qua modem, đường điện thoại hoặc ISDN line, gửi kèm theo yêu cầu về số tiền cần thanh toán, ngân hàng này kiểm tra trong CSDL của VISA xem thẻ của bạn có phải là thẻ hết hạn hoặc bị mất cắp hay không, số tiền bạn muốn trả có vượt quá hạn mức không, nếu không, ngân hàng sẽ báo lại ngay trong vài giây về EDCT là giao dịch được phê duyệt (approved), khi đó EDCT sẽ in ra một tờ giấy nhỏ ghi rõ số tiền, mã số giao dịch để bạn ký vào đó (Sale Slip). Bạn được giữ bản chính của sale slip, Merchant sẽ giữ bản sao và gửi về ngân hàng để nhận tiền sau này. Nhận được sale slip Merchant’s bank sẽ ghi có (credit) ngay số tiền giao dịch vào tài khoản của Merchant đồng thời gửi thông báo qua mạng của VISA yêu cầu ngân hàng của bạn (Cardholder’s Bank) thanh toán số tiền. Cardholder’s bank sẽ thanh toán tiền cho Merchant’s Bank và debit số tiền vào tài khoản của bạn. Chi tiết về giao dịch sẽ được ghi trong Statement kế tiếp gửi đến cho bạn. Giả sử có người ăn cắp thẻ của bạn, giả mạo chữ ký của bạn thì trong thời hạn nhất định (thường là 2 tuần) bạn có thể liên hệ với ngân hàng của bạn để đòi lại tiền. VISA đảm bảo rằng nếu ngân hàng của bạn chứng minh được chữ ký không phải là chữ ký của bạn thì họ sẽ trả lại tiền cho bạn ngay. Merchant’s bank sẽ lấy lại tiền từ tài khoản của Merchant còn việc tranh chấp là gánh nặng của Merchant đi theo bạn đòi tiền nếu họ muốn. Trường hợp này gọi là Chargeback. Tôi (hay đúng hơn là các tổ chức phát hành thẻ credit card) khuyến cáo bạn sử dụng credit card nên luôn luôn kiểm tra các giao dịch của mình thông qua tài khoản trực tuyến. Khi nhận thấy có các giao dịch lạ thì bạn đừng ngần ngại liên hệ ngay với ngân hàng để kiểm tra và đòi lại thiệt hại nếu có. Ngoài việc sử dụng chữ ký, bạn có thể sử dụng số PIN (Personal Identity Number) để approve giao dịch thay cho ký. Hiện nay ở một số nước, còn có thẻ tín dụng có khả năng thanh toán qua hệ thống tín hiệu sóng, tức là thay vì quẹt thẻ, người ta chỉ việc chạm thẻ vào mặt máy đọc thẻ và tiền sẽ được charged mà không cần phải ký hay nhập mã PIN. Nhưng giao dịch này không an toàn và khó đảm bảo tính sở hữu của thẻ nên người ta thường chỉ cho phép thực hiện với các giao dịch nhỏ (với số tiền hạn chế). Loại thẻ có sử dụng giao dịch kiểu này có thể sử dụng làm các vé điện tử, các thẻ thông minh đi tàu xe…
Trường hợp bạn thanh toán online, Merchant không có điều kiện swipe thẻ của bạn, cũng không nhìn thấy bạn. Nhưng bạn cung cấp tên, ngày hết hạn và số thẻ (16 số in trên mặt trước thẻ, hoặc 14 số đối với thẻ Diners Club) thì họ cũng kiểm tra được tương tự như làm qua EDCT. Để bảo vệ thêm cho Merchant, phía sau thẻ có một dãy số dài in trên cùng dải băng nơi có chữ ký của bạn. Đa số các Merchant yêu cầu bạn cung cấp 3-4 số cuối trong dãy số này, gọi là security code, trước khi nhận thanh toán. Tuy vậy bạn thấy rõ rằng giao dịch này không hoàn toàn an toàn 100%, một người có bản photocopy cả 2 mặt thẻ của bạn là có thể thanh toán online rồi. Đừng lo, rủi ro là ở phía Merchant, nếu bạn phát hiện giao dịch không đúng trên Statement của mình, hãy đến ngay ngân hàng của bạn yêu cầu chargeback. Nếu bạn chứng minh được giao dịch không phải do bạn thực hiện (e.g. bạn ở Hàn Quốc mà giao dịch lại do ai đó thực hiện từ máy tính ở Mỹ – có thể kiểm tra thông qua check IP) hoặc bạn claim là chẳng nhận được hàng gì cả, thì ngân hàng của bạn có cơ sở để đòi lại số tiền cho bạn ngay. Cuối cùng, chỉ tội nghiệp ông Merchant có thể đã gửi hàng đi mà chẳng được trả tiền, nếu có muốn kiện bạn thì bạn ở quá xa xôi, chi phí pháp lý thì cao, đành chấp nhận ngậm bồ hòn làm ngọt vậy. Không ít người đã sử dụng kẽ hở này để thực hiện các giao dịch không trung thực trên internet.
Để chống lại hiện tượng này các tổ chức thanh toán quốc tế có vài giải pháp. Các thẻ xảy ra rắc rối sẽ được ghi lại trên CSDL, lần sau sẽ khó có approval cho giao dịch hơn. Thẻ gây ra quá nhiều giao dịch thì cảnh sát có thể bí mật điều tra về Cardholder, và người đó có thể bị bắt, bị tù vì tội lừa đảo. Về phía các Merchant, họ tự vệ bằng cách từ chối nhận thanh toán bằng các loại thẻ phát hành từ các quốc gia mà ngân hàng của họ không với tới được, các quốc gia mà hệ thống bảo vệ pháp luật, cưỡng chế thi hành kém, thậm chí thẻ do các ngân hàng nhỏ và lạ phát hành. Một số Merchant lớn, họ có biện pháp an toàn gần như 100% là yêu cầu bạn điền thông tin vào một tờ khai, in ra, ký tên và gửi lại cho họ qua fax. Như đã nói ở trên, một khi giao dịch đã có chữ ký của bạn, thì khó lòng có thể Chargeback được, và nếu chữ ký giả mạo, thì từ chữ ký đó và số fax, thời gian, người ta có thể lần tìm ra được kẻ lừa đảo. Người thiệt thòi trong trường hợp này, có thể nói chính là Cardholder không được chấp nhận thanh toán, như các bạn ở Hàn Quốc chẳng hạn, trong khi thẻ của các bạn có biểu tượng của VISA, MasterCard hẳn hoi, tiền phí thì ngân hàng vẫn thu, mà công dụng thì không có. Biện pháp an toàn hơn mới được phát triển gần đây ở một số nước là sử dụng OTP (One-time PIN) thông qua tin nhắn điện thoại. Khi bạn thực hiện giao dịch online, ở bước cuối cùng sau khi bạn nhập các thông tin của thẻ và confirm giao dịch, hệ thống máy tính sẽ kết nối với máy chủ của tổ chức tài chính cấp thẻ, tạo ra một tin nhắn chứa một mã PIN ngẫu nhiên, gửi vào số điện thoại di động đã được đăng ký của chủ thẻ và yêu cầu người thực hiện phải nhập lại mã PIN này, nếu nhập sai thì giao dịch sẽ không thể thực hiện được. Đây là biện pháp được coi là an toàn nhất hiện nay, tất nhiên rủi ro có thể xảy ra khi bạn đánh mất cả thẻ tín dụng lẫn điện thoại di động của mình. Nếu bạn có sử dụng thẻ tín dụng có hình thức bảo mật này, hãy nhớ luôn cập nhật số điện thoại của mình với tài khoản thẻ tín dụng (khi thay mới). Một nơi mà tôi biết đã sử dụng công nghệ này là Singapore.
Ngoài thẻ tín dụng còn có loại thẻ khác goi là Debit Card. Debit card khác với Credit Card ở điểm căn bản nhất là không có quan hệ vay nợ, bạn có tiền trong tài khoản thì tiêu, hết thì thôi, không vay được. Ngân hàng phát hành thẻ Debit Card không phải chịu rủi ro khi bạn không có tiền trả nợ. Thực chất họ giữ tiền hộ bạn, giúp bạn sử dụng được tiện ích của các tổ chức thanh toán quốc tế bằng chính tiền của bạn. Debit Card có thể sử dụng được để thanh toán quốc tế có các đặc điểm về hình thức giống hệt Credit Card, phía trước có in nổi tên Cardholder, ngày cấp và ngày hết hạn và in nổi 16 số của thẻ, logo của tổ chức thanh toán quốc tế, phía sau có chữ ký, security code. Nếu thẻ của bạn có đầy đủ các yếu tố này, từ phía Merchant, họ không thể biết được thẻ của bạn là Credit hay Debit, và thông tin ấy cũng không có ý nghĩa gì với họ cả. Debit hay Credit là nói về quan hệ của bạn với ngân hàng của bạn mà thôi. Ở một số nước có hệ thống tài chính phát triển (ví dụ Vương quốc Anh), ngân hàng có thể cho phép chủ tài khoản sử dụng số tiền âm (với một limit nhất định) với lãi suất thậm chí thấp hơn so với thẻ tín dụng (gọi là Overdraft), có nghĩa là dù bạn hết sạch tiền trong tài khoản (tiền mặt của bạn), bạn vẫn có thể rút tiền mặt (bằng thẻ ATM) hoặc tiêu dùng bằng VISA/Master debit card tới số tiền giới hạn mà Overdraft cho phép. Tất nhiên, overdraft này phải được đăng ký trước.
Cũng cần nói thêm, ngoài loại thẻ Debit tiêu chuẩn như nói ở trên, nhiều ngân hàng chưa thật sự integrate hệ thống với các mạng lưới thanh toán quốc tế, họ phát hành các loại thẻ cũng gọi là debit card, nhưng thực chất không dùng được để thanh toán online. Nếu bạn thấy tên mình, ngày cấp, ngày hết hạn, số thẻ không in nổi, số thẻ không phải 16 số, thì nhiều khả năng sẽ không thanh toán được online (trừ khi là thẻ đã được approve là international). Các loại thẻ “debit rởm” kiểu này thực chất ở nhiều nước được gọi là ATM card, bởi vì thẻ dùng được ở ATM. Bạn dùng thẻ rút tiền ở ATM ra tiêu thôi (ở Việt Nam rất phổ biến loại thẻ này). Một số ngân hàng ví dụ ANZ Việt Nam, DBS Singapore khi cấp thẻ VISA DEBIT card cũng là thẻ không in nổi số nhưng vẫn là thẻ quốc tế, tức là thực hiện được các giao dịch chuẩn như đã nói ở trên.
Ở một số nước trong phạm vi quốc gia có hệ thống thanh toán liên ngân hàng, ví dụ ở Singapore gọi là NETS. Bạn có thể dùng thẻ ATM mua hàng ở cửa hàng cũng bằng hình thức swipe card. Nhưng thay vì ký tên bạn gõ số PIN (bí mật của bạn) vào một cái máy, tiền được chuyển từ tài khoản của bạn vào tài khoản của Merchant ngay lập tức, không có cơ hội chargeback, lấy lại tiền bất kỳ kiểu gì, dù là thẻ bị đánh cắp (lý do: bạn bị mất cắp thẻ không báo ngay lại còn tiết lộ số PIN cho kẻ cắp thì cũng đáng bị mất tiền rồi). Vì thế NETS được coi là giao dịch tương đương với trả tiền mặt. Nếu bạn có Card reader thì còn có thể sử dụng thẻ ATM để mua hàng trên PC nữa. Ngoài ra còn có một loại thẻ nữa dùng ở Singapore, gọi là Cash Card. Thẻ này cực kỳ đơn giản, bạn dùng thẻ ATM nạp tiền vào Cash Card, sau đó dùng Cash Card thanh toán được mọi thứ, nhưng nhớ đừng nạp nhiều tiền vào Cash Card, vì Cash Card không ghi tên, chỉ là một cái electronic wallet để tránh không phải giữ tiền xu thôi, nếu đánh rơi Cash Card cũng không khác đánh rơi ví, ai nhặt được có thể tiêu hết tiền mà chẳng bao giờ phải chịu trách nhiệm gì cả. Cash Card không cần ký tên, cũng không có PIN gì hết.
Nhiều người cho rằng sử dụng DEBIT card thì dễ dàng quản lý chi tiêu của mình (vì mình chỉ dùng tiền của mình mà không vay), nhưng credit card lại có những điểm mạnh riêng mà debit card không thể có. Đó là việc khả năng đòi lại tiền trong các trường hợp bị thất thoát thông tin, và khả năng kiếm điểm thưởng. Rất nhiều các credit card đều có các chương trình thưởng điểm hoặc hoàn lại tiền (khoảng 5-10%) khi bạn tiêu tiền bằng credit card và điểm này được tích lại và đổi trả lại bằng tiền mặt hoặc quà vào cuối năm. Ngoài ra ở các nước với hệ thống tín dụng mạnh (như Anh, Mỹ, Canada…), mọi hoạt động đều là vay tiền (mua nhà, mua xe…) thì sử dụng credit card lại rất có lợi khi bạn đi vay. Lúc vay tiền, ngân hàng sẽ check credit history của bạn và xem quá khứ tiêu dùng của bạn. Nếu bạn tiêu dùng đều đặn, có vay có trả đầy đủ thì có nghĩa là độ tin cậy của bạn cao và sẽ là một điểm số cho việc bạn vay được nhiều hay ít. Có lẽ các giao dịch credit/debit quốc tế sẽ ngày càng phổ biến hơn ở Việt Nam và các bạn trẻ càng nên tìm hiểu nhiều hơn về những dịch vụ này. Đừng lo sợ khi tham gia cuộc chơi này, và cũng đừng chết vì thiếu hiểu biết.