Khi nói đến tâm lý người cần nắm một số đặc điểm cơ bản sau: – Tâm lý là hiện tượng tinh thần là đời sống nội tâm của con người. Mặc dù nói là tâm lý diễn ra ở não, nhưng những nhà nghiên cứu đã nghiên cứu kỹ não của các nhà bác học và một số nhân vật nổi tiếng …

Đang xem: Tâm lý là gì cho ví dụ

*

AlTâm lý học – Đặc điểm của tâm lý con người CHƯƠNG I TÂM LÝ VÀ TÂM LÝ HỌC QUẢN TRỊ I. Tâm lý là gì? 1. Khái niệm tâm lý: Tâm lý là sự phản ánh sự vật hiện tượng của thế giới khách quan, nãolàm chức năng phản ánh đó. Sự phản ánh này có tính chất chủ thể và mangbản chất xã hội – lịch sử. 2. Đặc điểm của tâm lý người: Khi nói đến tâm lý người cần nắm một số đặc điểm cơ bản sau: – Tâm lý là hiện tượng tinh thần là đời sống nội tâm của con người.Mặc dù nói là tâm lý diễn ra ở não, nhưng những nhà nghiên cứu đã nghiêncứu kỹ não của các nhà bác học và một số nhân vật nổi tiếng để xem có gìkhác biệt không thì đến nay vẫn chưa phát hiện thấy điều gì khác biệt so vớinão của người thường. Thực tế chúng ta không thể cân đong, đo, đếm trựctiếp tâm lý mà chỉ có thể đoán định thông qua những gì cá nhân biểu hiện rabên ngoài. – Tâm lý là một hiện tượng tinh thần gần gũi, thân thuộc với conngười. Tâm lý không phải là những gì cao siêu xa lạ, mà chính là những gìcon người suy nghĩ, hành động, cảm nhận… hàng ngày. – Tâm lý người phong phú, đa dạng và đầy tính tiềm tàng. Tâm lýphong phú đa dạng do tâm lý mỗi người một khác, và hơn nữa tâm lý khôngphải là bất biến mà luôn biến đổi theo thời gian. Mặc dù gần gũi thân thuộcnhưng con người còn rất nhiều điều chưa hiểu về chính tâm lý của mình, vídụ như hiện tượng của các thần đồng, liệu con người có giác quan thứ sáuhay không,…Điều này giống như tâm lý là một cánh đồng rộng mênh môngmà những gì khoa học tâm lý nghiên cứu được thì còn giới hạn. 1 – Tâm lý người có tính chất chủ thể nên tâm lý không ai giống ai. Domỗi người có cấu trúc hệ thần kinh và cơ thể khác nhau; tuổi tác khác nhau;giới tính khác nhau; nghề nghiệp khác nhau; địa vị xã hội khác nhau; điềukiện sống khác nhau… – Tâm lý người là kết quả của quá trình xã hội hoá. Con người chúngta luôn sống trong xã hội do đó chịu sự tác động của xã hội đó và sẽ cóchung những đặc điểm của xã hội mà mình sống trong đó; ở mỗi giai đoạnlịch sử của xã hội, xã hội đó có những đặc thù riêng, đặc điểm tâm lý xã hộiriêng. – Tâm lý có sức mạnh to lớn. Năm 1902, nhà bác học Cô-phen-hap,người Đan mạch, đã làm thí nghiệm trên một tử tù và chứng minh rằng conngười có thể tự ám thị mình và giết chết bản thân chỉ trong một thời gianngắn. Tâm lý có thể giúp con người tăng thêm sức mạnh, vượt qua khó khănđể đi đến thành công, cũng có thể khiến con người trở nên yếu ớt, bạc nhượcvà thất bại. II. Phân loại các hiện tượng tâm lý: 1.Phân loại theo thời gian tồn tại và quá trình diễn biến: Theo thời gian tồn tại và quá trình diễn biến các nhà nghiên cứu chiahiện tượng tâm lý ra làm ba loại: quá trình tâm lý, trạng thái tâm lý và thuộctính tâm lý. – Các quá trình tâm lý: là những hiện tượng tâm lý diễn ra trong thờigian tương đối ngắn, có bắt đầu, diễn biến và kết thúc. Ví dụ: Các quá trình nhận thức như cảm giác, tri giác, tư duy, tưởngtượng; Các quá trình giao tiếp… – Các trạng thái tâm lý là các hiện tượng tâm lý diễn ra trong thờigian tương đối dài và đóng vai trò làm nền cho các quá trình tâm lý và cácthuộc tính tâm lý biểu hiện ra một cách nhất định. Với các trạng thái tâm lý 2chúng ta thường chỉ biết đến khi nó đã xuất hiện ở bạn thân, tuy nhiênthường không biết được thời điểm bắt đầu và kết thúc của chúng. Ví dụ: Trạng thái tập trung, chú ý, lơ đãng, mệt mỏi, vui, buồn, phấnkhởi, chán nản… – Các thuộc tính tâm lý: là những hiện tượng tâm lý đã trở nên ổnđịnh, bền vững ở mỗi người tạo nên nét riêng về mặt nội dung của người đó.Thuộc tính tâm lý diễn ra trong thời gian dài và kéo dài rất lâu có khi gắn bóvới cả cuộc đời một người. Ví dụ: Tính khí, tính cách, năng lực, quan điểm, niềm tin, lý tưởng,thế giới quan… Có thể thể hiện mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lý theo sơ đồsau: Các hiện tượng tâm Các trạng thái Các quá trình Các thuộc tâm lý tâm lý tính tâm lý Các quá trình tâm lý, trạng thái tâm lý và thuộc tính tâm lý không hềtách rời nhau mà luôn ảnh hưởng và chi phối lẫn nhau. 3 2.Phân loại theo sự tham gia điều chỉnh của ý thức người ta chia các hiện tượng tâm lý ra làm hai loại: Dựa theo sự tham gia điều chỉnh của ý thức những hiện tượng tâm lýđược chia thành hiện tượng tâm lý có ý thức và hiện tượng tâm lý vô thức. – Những hiện tượng tâm lý có ý thức: là những hiện tượng tâm lý cósự tham gia điều chỉnh của ý thức, con người nhận biết được sự tồn tại vàdiễn biến của chúng. Ý thức sẽ định hướng, điều khiển, điều chỉnh các hoạt động tâm lýcũng như các hành vi cụ thể ở cá nhân. Ý thức giúp xác định mục đích, vạchra kế hoạch hành động, thúc đẩy và điều khiển con người hành động đúngđắn hơn, tạo ra ý chí. Ý thức tạo ra sự chủ động của cá nhân trong hoạt động.Nó giúp cá nhân định vị được mình trong hiện thực khách quan, nhận diệnđược mình, tự cải tạo bản thân, tự rèn luyện để ngày càng hoàn thiện hơn. Đa số các hiện tượng tâm lý ở người là những hiện tượng tâm lý có ýthức. – Những hiện tượng tâm lý không có sự tham gia của ý thức (Vôthức): là những hiện tượng tâm lý không có sự tham gia điều chỉnh của ýthức, con người không nhận biết về sự tồn tại của chúng. Một số nguyên nhân gây ra các hiện tượng tâm lý không ý thức là: + Những hiện tượng thuộc về bệnh lý như: bệnh thần kinh, bệnh ảogiác, bệnh hoang tưởng, bệnh say rượu. + Những hiện tượng tâm lý sinh ra có sự ức chế của hệ thần kinhnhư: thôi miên, ám thị, mộng du… + Những hiện tượng tâm lý thuộc về bản năng. + Những hiện tượng tâm lý thuộc về tiềm thức: là những hiện tượngtâm lý vốn ban đầu là có ý thức nhưng do dược lặp đi lặp lại nhiều lần nên ýthức ẩn đi, chỉ khi cần thiết thì mới quay lại kiểm soát các hoạt động. 4 + Những hiện tượng tâm lý “vụt sáng”. Cách phân loại này được những người làm Marketing rất quan tâm.Kỹ thuật “phỏng vấn tiềm thức” với phương pháp xạ ảnh được những nhànghiên cứu tâm lý khách hàng vận dụng để tìm hiểu những yếu tố thôi thúcngầm khiến con người mua một sản phẩm dịch vụ, để từ đó tạo ra tác độngmarketing phù hợp. III. Tâm lý học quản trị: 1.Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học quản trị: Tâm lý học quản trị là ngành khoa học nghiên cứu việc ứng dụng tâmlý vào công tác quản trị kinh doanh. Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học quản trị là: – Sự thích ứng của công việc SXKD với con người như phân cônglao động, đánh giá việc thực hiện, tổ chức chế độ làm việc và nghỉ ngơi hợplý, đưa yếu tố thẩm mỹ vào SXKD… – Mối quan hệ “Người – Máy móc”, nghiên cứu việc thiết kế máymóc phù hợp nhất với tâm sinh lý của người sử dụng. – Mối quan hệ của con người với nghề nghiệp bao gồm lựa chọnnhững người phù hợp với công việc, đào tạo những kỹ năng liên quan đếnnghề nghiệp… – Sự thích ứng của con người với con người trong SXKD như bầukhông khí tâm lý tập thể, sự hoà hợp giữa các thành viên, mối quan hệ giữalãnh đạo và nhân viên, tạo động cơ thúc đẩy lao động… – Tâm lý tiêu dùng. Những khám phá được tâm lý học quả trị tìm ra có thể sử dụng đểthuê những nhân viên giỏi nhất, giảm bớt sự vắng mặt, cải thiện sự truyềnđạt thông tin, tăng thêm sự thảo mãn trong công việc, giải quyết vô số vấnđề khác. 5 Hầu hết các nhà tâm lý học I/O cảm thấy có sự giống nhau giữa haimặt: khoa học và thực hành. Do đó, trong sự giáo dục các nhà tâm lý học I/Ođều có mô hình người nghiên cứu -ứng dụng, họ được dạy cả cách điều tranghiên cứu và ứng dụng vào thực tiễn. 2.Tâm lý học quản trị và các lĩnh vực tâm lý khác: Tâm lý học quản trị thuộc mảng tâm lý học ứng dụng. Trong số cáclĩnh vực tâm lý học ứng dụng còn có: tâm lý học y khoa, tâm lý học sưphạm, tâm lý học tội phạm, tâm lý học nghệ thuật, tâm lý học tiêu dùng, tâmlý kỹ sư,… IV. Phương pháp nghiên cứu của tâm lý học quản trị:1. Các nguyên tắc cần tuân thủ khi nghiên cứu tâm lý người: – Đảm bảo tính khách quan. Tất cả các nghiên cứu khoa học đều đòihỏi phải đảm bảo tính khách quan, nghĩa là phải nghiên cứu đúng bản chấtcủa vấn đề không được đưa ý chủ quan của cá nhân nghiên cứu vào kết quả.Với việc nghiên cứu tâm lý đảm bảo tính khách quan là rất khó khăn vì: thứnhất đối tượng nghiên cứu của chúng ta là con người- những thực thể đãđược xã hội hoá, do đó đối tượng này nếu muốn có thể che giấu tâm lý thựccủa mình nếu họ biết đang bị nghiên cứu; thứ hai, chúng ta không thể nghiêncứu trực tiếp tâm lý người mà chỉ thông qua những gì biểu hiện ra bên ngoàimà đoán định tâm lý bên trong, do đó phải trải qua một quá trình suy luận từđó rất dễ bị chủ quan của người nghiên cứu chi phối. Muốn đảm bảo tính khách quan cần loại bỏ các yếu tố ngoại lai nhưsự sợ hãi, ảnh hưởng của người khác, tâm trạng của người bị nghiên cứu… – Đảm bảo tính toàn diện và tính hệ thống. Con người đóng nhiều vaitrò trong xã hội do đó họ có nhiều mặt biểu hiện khác nhau. Muốn hiểu thấuđáo con người chúng ta cần nghiên cứu tất cả các mặt của họ. 6 – Đảm bảo tính biện chứng và tính lịch sử. Cần nghiên cứu con ngườitrong mối quan hệ tác động qua lại với môi trường. – Đảm bảo tính sâu sắc và khoa học. Các nghiên cứu cần phải đượcchứng minh là có tính hiệu lực và có độ tin cậy ở mức được phép chấpnhận. – Phải kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu. Đây là nguyên tắc tuyệtđối cần tuân thủ. Mỗi phương pháp nghiên cứu tâm lý đều là nghiên cứugián tiếp, các kết luận được đưa ra luôn thông qua sự suy đoán của ngườinghiên cứu nên sai số xảy ra thường lớn, để đảm bảo độ chính xác trongnghiên cứu cần kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu.2. Các phương pháp nghiên cứu: – Quan sát: là phương pháp dùng các giác quan để tri giác đối tượngvà thông qua những gì tri giác được mà đoán định về tâm lý của đối tượng. Quan sát là dùng tai để nghe, mắt để nhìn, mũi để ngửi mùi, da để cẩmnhận sự đụng chạm và thông qua đó đoán định tâm lý của đối tượng. – Đàm thoại (phỏng vấn): Là phương pháp mà người nghiên cứu đặtra một loạt câu hỏi trong cuộc tiếp xúc trực tiếp để thông qua câu trả lời màđoán định tâm lý của đối tượng. Một cuộc đàm thoại thường chia làm 3 giaiđoạn: Giai đoạn mở đầu: người nghiên cứu đặt ra các câu hỏi tiếp xúc,các câu hỏi mà người được hỏi dễ trả lời và sẵn sàng trả lời, nhằm tạo rakhông khí thân mật, tin cậy giữa hai bên. Giai đoạn chính của cuộc đàm thoại: tuỳ mục đích người nghiêncứu sẽ đặt các câu hỏi để đạt mục đích tìm hiểu. Có thể dùng các dạng câuhỏi: thẳng, chặn đầu, hỏi vòng quanh. Giai đoạn cuối của cuộc đàm thoại: trở lại các câu hỏi tiếp xúc,nhằm giải toả căng thẳng cho đối tượng. 7 – Phương pháp bảng câu hỏi: là phương pháp dùng một bảng câu hỏisoạn sẵn và dựa vào câu trả lời để đánh giá tâm lý của đối tượng. – Phương pháp trắc nghiệm: là phương pháp dùng các phép thử,thường là các bài tập nhỏ, đã được kiểm nghiệm trên một số lượng ngườivừa đủ tiêu biểu, và dùng kết quả của nó để đánh giá tâm lý của đối tượng. – Phương pháp thực nghiệm: là phương pháp mà người nghiên cứuđưa đối tượng vào các tình huống thực tế trong hoạt động hàng ngày của họ,chính người tham gia cũng không biết là mình đang bị nghiên cứu, ngườinghiên cứu có thể chủ động tạo ra các tình huống đặc thù để đối tượng bật ratâm lý thực. Phương pháp này thường được nhà quản trị sử dụng khi muốn tìmhiểu tính cách của nhân viên mình, khi muốn kiểm tra năng lực của một cánbộ, nhân viên sắp được đề bạt, khi muốn kiểm tra mô hình quản lý mới. – Phương pháp nghiên cứu tiểu sử: là phương pháp nghiên cứu cácmối quan hệ xã hội của đối tượng để suy ra tâm lý của họ; khi nghiên cứucần nghiên cứu về gia tộc huyết thống của người đó, các mối quan hệ xã hội,nhịp sống xã hội của người đó. – Phương pháp nghiên cứu sản phẩm: là phương pháp thông qua cácsản phẩm mà người đó làm ra để đoán định tâm lý của họ. – Phương pháp trắc lượng xã hội: người nghiên cứu đưa ra một bảnghỏi từ 8-10 câu xoay quanh việc đối tượng chọn ai hoặc không chọn ai, thíchai, không thích ai để từ đó nghiên cứu ra mối quan hệ trong nhóm và tập thể. V. Lịch sử phát triển của tâm lý học quản trị: Lịch sử tâm lý học quản trị có thể chia thành các giai đoạn sau: 1. Những năm đầu 1900-1916 – Giai đoạn hình thành: Giai đoạn này đánh dấu sự ra đời của tâm lý học quản trị. Tâm lý họcquả trị ra đời từ sự kết hợp tự nhiên giữa ý tưởng nghiên cứu tâm lý để vận 8dụng vào trong thực tiễn và sự mong muốn của các kỹ sư công nghiệp trongcải tiến năng suất lao động. Những dấu ấn lớn của giai đoạn này là: – Năm 1897 W.L.Bryan viết một bài báo (Bryan &Harter, 1897) vềphát triển kỹ năng nghề nghiệp của nhân viên điện báo trong việc gửi vànhận tín hiệu Morse. – Cặp vợ chồng Frank and Lillian Gilbreth góp phần tiên phong chonhững hiểu biết về thời gian cử động trong sản xuất công nghiệp. LillianGilbreth trong một bài phát biểu trước các kỹ sư năm 1908 đã vạch ra sự cầnthiết mà tâm lý học cần phải có trong các trương trình làm việc được các kỹsư công nghiệp vạch ra. – Walter Dill Scott với hai cuốn sách: lý thuyết quảng cáo (1903) vàtâm lý học trong quảng cáo (1908). – Frederick W. Taylor với quyển sách những nguyên lý của quản trịkhoa học (1911) đã chứng minh rằng những người lao động làm việc luyệnkim nặng nhọc sẽ làm việc hiệu quả hơn nếu họ có những lúc nghỉ ngơi. – Hugo Münsterberg với quyển sách của ông Tâm lý học và năngsuất công nghiệp (1913) phân biệt 3 phần: lựa chọn người lao động, thiết kếđiều kiện làm việc, và sử dụng tâm lý học trong bán hàng. Như vậy, sự kết hợp của tâm lý học với những quan tâm ứng dụngvà các doanh nghiệp trong việc nâng cao hơn hiệu quả công nghiệp đã gópphần ra đời tâm lý học quản trị. I/O. Năm 1910 “tâm lý học công nghiệp” (từ“quản trị” chỉ được sử dụng từ những năm 1970) đã chính thức trở thànhmột lĩnh vực riêng biệt của tâm lý học. 2. Giai đoạn 1917-1945- Giai đoạn phát triển và khẳng định vai trò: Giai đoạn này tâm lý học quản trị chịu tác động mạnh mẽ của hai cuộcchiến tranh thế giới. Có thể chia thành các giai đoạn nhỏ như sau: Giai đoạn 1917-1918: 9 Chiến tranh thế giới thứ nhất đã đưa tâm lý học nói chung và tâm lýquản trị nói riêng lên vị trí được tôn trọng. Để phục vụ cho lợi ích của Tổ quốc mình trong cuộc chiến tranh,những nhà tâm lý học quả trị đã đẩy mạnh các nghiên cứu như: chiếu phimcho lính mới để củng cố tinh thần và bố trí các tân binh mới được tuyển vàocác công việc trong quân đội, nghiên cứu động cơ thúc đẩy, tinh thần , cácvấn đề tâm lý khi cơ thể mệt mỏi, kỷ luật của người lính. Tuy nhiên khôngphải tất cả những điều mà các nhà tâm lý học đề nghị đều được quân đội sửdụng, chỉ một số rất khiêm tốn các đề nghị được chấp thuận, hầu hết chúngliên quan đến việc đánh giá tân binh. Với những nghiên cứu và đóng góp, các nhà tâm lý được coi trọngnhư những người có thể tạo ra những đóng góp có giá trị cho xã hội và choviệc ứng dụng của các doanh nghiệp, và cho nền kinh tế. Cũng năm 1917 tạp chí lâu đời và tiêu biểu nhất trong lĩnh vực tâm lýhọc quản trị – Tạp chí tâm lý học ứng dung- bắt đầu được xuất bản. Một sốbài báo trong số đầu tiên là “Những mối quan hệ thực tế giữa tâm lý học vàchiến tranh” của Hall, “Kiểm tra trí lực của sinh viên đại học” của Bingham,và “Người khờ dại là một vấn đề của chiến tranh” của Mateer. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, là thời kỳ bùng nổ các công ty tưvấn và các cơ quan nghiên cứu tâm lý. Sự ra đời của các cơ quan này báohiệu kỷ nguyên mới của tâm lý học quản trị. Giai đoạn 1919-1940: Giai đoạn này xã hội đã bắt đầu nhận thức rõ rằng tâm lý học quản trịcó thể giải quyết những vấn đề của thực tiễn. Tiếp sau chiến tranh, một vàicơ quan nghiên cứu tâm lý thực sự đạt đến thời kỳ rực rỡ. Tiêu biểu như ởMỹ Viện nghiên cứu nghệ thuật bán hàng của trường Đại học kỹ thuậtCarnegie được Walter Bingham mở rộng. 27 công ty hợp tác với Bingham, 10mỗi công ty góp khoảng 500USD hàng năm làm kinh phí nghiên cứu ứngdụng tâm lý. Viện tập trung vào lựa chọn người bán hàng, tuyển chọn, phânloại, và phát triển các nhân viên văn phòng và cơ quan hành pháp.

Xem thêm:

Xem thêm:

Các nhàtâm lý học tập trung đưa tâm lý trở thành lĩnh vực kinh doanh vì sự tiến bộcủa tâm lý học và đẩy mạnh việc sử dung nó hữu ích hơn trong công nghiệp. Năm 1924 nghiên cứu ở Hawthorne “ là biểu tượng của chương trìnhnghiên cứu quan trọng nhất thể hiện sự liên hệ to lớn của vấn đề sản xuấttrong mối quan hệ với hiệu quả” bắt đầu được triển khai. (Blum & Naylor,1968). Nghiên cứu ở Hawthorne là một dự án kinh doanh chung giữa Côngty điện tử miền Tây và cá nhân những nhà nghiên cứu của Đại học Harvard,dưới sự chủ trì của Elton Mayo. Bắt nguồn của nghiên cứu là do người ta thửtìm kiếm mối liên hệ giữa ánh sáng và năng suất lao động. Các nhà nghiêncứu đưa ra các chế độ ánh sáng khác nhau trong phòng làm việc nơi sản xuấtcác dung cụ điện tử. Trong một số trường hợp, ánh sáng có cường độ mạnh,trong những trường hợp khác, chúng được giảm bớt tương đương với ánhsáng trăng. Điều ngạc nhiên vô cùng đối với các nhà nghiên cứu, năng suấtlao động có vẻ như không liên quan đến mức độ chiếu sáng. Điều đó khiếncác nhà nghiên cứu phải giả thuyết là một số yếu tố khác đã ảnh hưởng đếnnăng suất lao động. Một trong những khám phá quan trọng từ nghiên cứu là hiện tượngđược gọi là hiệu ứng Hawthorne . Các nghiên cứu Hawthorne cũng phát hiệnsự tồn tại thông tin công việc của nhóm nhân viên và sự kiểm tra sản xuấtcủa họ, cũng quan trọng chẳng khác gì thái độ của người lao động, giá trịcủa việc có sự đồng tình và người giám sát hiểu biết, và nhu cầu được đối xửnhư con người thay thế cho việc coi họ đơn thuần là tiền vốn con người. Sự 11phát hiện của họ về sự rắc rối của hành vi con người mở ra một khung cảnhmới cho tâm lý học quản trị. Nghiên cứu Hawthorne đã mở ra những hướng nghiên cứu mới. Tâmlý học quản trị không còn đơn điệu nữa. Giai đoạn 1941-1945: Trong thời gian này, các nhà tâm lý học nghiên cứu các vấn đề tuyểnchọn người lao động và bố trí công việc và tiến hành lựa chọn họ với nhữngkỹ thuật lớn lao hơn. Để phục vụ cho chiến tranh, các quân đội quan tâmmạnh mẽ hơn trong chiến tranh thế giới thứ nhất về kiểm tra để có thể xếphạng lính mới, các phương pháp lựa chọn người cho đào tạo sĩ quan, test vềtài năng nghề nghiệp, và bổ sung thêm các test đánh giá thái độ. Ngoài raquân đội cũng quan tâm đến phát triển và sử dung các bài test về stress dohoàn cảnh, được dùng cho các đơn vị tình báo quân đội. Trong lĩnh vực lựachọn và đào tạo phi công để lái máy bay chiến đấu các nhà tâm lý tham gianghiên cứu hai vấn đề phát hiện các ứng viên tốt để lựa chọn dùng và đàotạo thành phi công (đây là lĩnh vực truyền thống của tâm lý cá nhân) và cáctrang bị có thể phác họa làm công việc của phi công trở nên thoải mái và antoàn (một lĩnh vực mới của tâm lý học). Trong giai đoạn này việc sử dụng các test cho nhân viên trong côngnghiệp tăng lên nhiều. Vì các doanh nghiệp cần một lực lượng lao động sảnxuất ra nhiều, các nhà tâm lý được gọi đến giúp làm giảm sự vắng mặt củangười lao động (Pickard, 1945). Công nghiệp khám phá rằng một số kỹ thuậtcủa các nhà tâm lý học công nghiệp rất có ích, đặc biệt là trong lĩnh vựctuyển chọn, đào tạo, và thiết kế máy móc, và những nhà lãnh đạo côngnghiệp đã đặc biệt quan tâm đến những ứng dụng của tâm lý học xã hội. 12 Trong giai đoạn tiếp theo của lịch sử tâm lý học quản trị chứng kiếnsự tiến triển của môn học thành chuyên ngành đặc biệt với chuyên môn ởcác mức độ cao hơn về học thuật và khoa học. 3. Giai đoạn phân hoá (1946-1963): Trong thời kỳ này, tâm lý học quản trị tiến triển thành lĩnh vực chínhthống của khoa học điều tra, tự nó đã có uy tín như một nghề thực nghiệmđược thừa nhận. Nhiều trường đại học và tổng hợp mở cá lớp “tâm lý họccông nghiệp”, và đào tạo cả cấp độ cao học và tiến sĩ. Sự quan tâm đến mộtchuyên ngành bắt đầu kết tinh, và tâm lý học công nghiệp tạo thành một lĩnhvực riêng. Các tạp chí mới ra đời cùng với sự ra đời những hiệp hội nghềnghiệp mới. Trước hết là tâm lý học kỹ sư, ra đời trong thời gian chiến tranh thếgiới thứ hai, đã được thừa nhận như một lĩnh vực riêng biệt, trong đó có sựảnh hưởng mạnh của các sách như Ứng dụng tâm lý học thực nghiệm(Chapanis, Garner & Morgan, 1949) và Sách hướng dẫn những dữ liệu củangười kỹ sư (1949). Tâm lý học kỹ sư bắt đầu một thời kỳ bùng nổ và lớnlên từ 1950 đến 1960. Tâm lý học kỹ sư là sự pha trộng cả tâm lý học thựcnghiệm và tâm lý học công nghiệp. Vào những năm 1950, sự quan tâm tăng lên đối với nghiên cứu tổchức. Các nhà nghiên cứu dành sự chú ý hơn đến các ảnh hưởng của xã hộiđã tác động đến hành vi trong tổ chức. Các điều kiện như sự thay đổi của tổchức và sự phát triển của tổ chức được xuất bản thành tài liệu thường xuyênhơn. Hành vi tổ chức là sự pha trộn của tâm lý học công nghiệp, tâm lý xãhội và xã hội học. 4. Giai đoạn có sự giám sát của chính phủ (1964 đến nay): Vào cuối những năm 1950 và đầu những năm 1960, dưới tác động củaLiên Hiệp Quốc về vấn đề nhân quyền, các quốc gia bắt đầu tăng cường 13quan tâm đến quyền của công dân, đến các khía cạnh công bằng trong côngviệc. Từ trước đó Tâm lý học quản trị đã được xem như một nghề, các nhàtâm lý học quản trị tương đối được tự do và ít bị kiểm soát trong việc sửdụng trạng thái muôn màu muôn vẻ rộng lớn của các phương pháp đánh giátâm lý (như là, test, phỏng vấn, và vân vân) để đưa ra các quyết định về laođộng. Kết quả của các quyết định lao động dựa trên đánh giá tâm lý bị cholà tạo ra sự hạn chế và không cho phép các nhóm thiểu số (đáng kể nhất làngười da đen và nữ giới) tham gia làm việc. Các chính phủ bắt đầu qui địnhsự giám sát và các thủ tục cá nhân của người lao động. Như vậy, tâm lý học quả trị phục vụ cả hai yêu cầu. Thứ nhất là thựchiện công việc với chất lượng cao, điều đó dẫn tới các nghiên cứu khoa họchoặc các dịch vụ phục vụ cho khách hàng. Thứ hai là đáp ứng sự khảo sát vàđánh giá của chính phủ. Các nhà tâm lý học quản trị hiện nay đã chấp nhậntầm quan trọng của việc chịu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi của mình. Sự giám sát của pháp luật, nhắc nhở các nhà tâm lý học quản trị mởrộng tầm nhận thức của họ để đảm bảo được chấp nhận các vấn đề họ hướngđến và các giải pháp họ đề xuất. Một nhà tâm lý học hiện đại đòi hỏi phảilưu tâm các qui định của luật pháp. CÂU HỎI 1. Hãy nêu các đặc điểm của tâm lý người và cho biết ý nghĩa của nó đối với hoạt động của nhà quả trị. 2. Hãy nêu cách phân loại các hiện tượng tâm lý theo quá trình diễn biến và thời gian tồn tại. Cho biết ý nghĩa của các phân loại đối với việc định hướng cho hoạt động xây dựng văn hoá tổ chức? 14 3. Hãy nêu các hiện tượng tâm lý theo sự tham gia của ý thức. Cho biết ý nghĩa của nó đối với việc định hướng hoạt động nghiên cứu hành vi người tiêu dùng. 4. Trình bày các nguyên tắc cần tuân thủ khi nghiên cứu tâm lý người. 5. Nghiên cứu tâm lý có thể sử dụng những phương pháp nào? 6. Tâm lý học quản trị đã trải qua những giai đoạn phát triển nào? CHƯƠNG II NHÂN CÁCH I. Một số khái niệm: 1. Con người: Con người là khái niệm chung nhất để chỉ bất kỳ người nào trong xãhội, trong tự nhiên. Con người được hiểu theo hai mặt: mặt sinh vật và mặtxã hội. Về mặt sinh con người là sinh vật ở bậc thang cao nhất của sự tiếnhóa. Về mặt xã hội, con người sống trong xã hội, có mối quan hệ với xã hội,có những vị trí, vai trò, nhiệm vụ và quyền lợi nhất định trong xã hội và bịchi phối bởi các mối quan hệ xã hội. 2. Cá nhân: Cá nhân là một con người riêng biệt, cụ thể nào đó với những đặcđiểm riêng biệt về mặt sinh vật và xã hội đặc trưng cho con người đó. Mỗingười đều là một cá nhân. 3. Nhân cách: Từ nhân cách (personality) được bắt nguồn từ thuật ngữ Latinh cónghĩa là mặt nạ, nhấn mạnh đến tàm quan trọng của những tác động bênngoài. Có nhiều định nghĩa về nhân cách, Allfort (1961) đã phân biệt cácđịnh nghĩa thành 3 loại: ấn tượng bên ngoài, cấu trúc nội tại và quan điểmthực chứng. Theo chúng tôi có thể coi nhân cách là toàn bộ những đặc điểm 15tâm lý đã ổn định của cá nhân tạo nên giá trị xã hội, hành vi xã hội của cánhân. Khi được sinh ra cá nhân chưa phải là một nhân cách. Nhân cách hìnhthành trong quá trình cá nhân sống và lớn lên trong xã hội. Tuỳ theo điềukiện sống mà nhân cách sẽ phát triển theo chiều hướng nào. Thông thườngkhi ý thức phát triển đến một trình độ nào đó thì nhân cách mới bắt đầu hìnhthành, và phát triển theo quá trinhd trưởng thành của con người. Sự hìnhthành và phát triển nhân cách phụ thuộc vào các yếu tố sau: – Các đặc điểm bẩm sinh di truyền. – Giáo dục của cả gia đình và xã hội đóng một vai trò chủ đạo. – Hoạt động của cá nhân – Qua hoạt động giao lưu. II. Cấu trúc của nhân cách theo quan điểm của tâm lý học hoạt động: 1. Xu hướng: Xu hướng là sự hướng tới một mục tiêu, một đối tượng nào đó, là mộthệ thống những nhân tố thúc đẩy bên trong qui định tính tích cực của conngười trong hoạt động của họ. Xu hướng biểu hiện qua các nhu cầu, hứng thú, niềm tin, lý tưởng…của cá nhân mà nếu tập hợp lại chúng sẽ xác định mục đích cuộc sống củacon người. Nhu cầu Nhu cầu là những gì mà cá nhân cần được thỏa mãn để sống, để hoạtđộng. Nhu cầu là biểu hiện của xu hướng về mặt nguyện vọng. Nhu cầu nảysinh từ mối quan hệ giữa hoàn cảnh bên ngoài với điều kiện bên trong của 16con người, nó biểu hiện sự phụ thuộc của con người vào hoàn cảnh sống cụthể ấy, chứ không phải nảy sinh từ ý thức hay ý chí chủ quan của cá nhân. Có một số cách phân loại nhu cầu: Nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần: 1). Nhu cầu vật chất (nhu cầutự nhiên) là nhu cầu chủ yếu do bản năng sinh ra như ăn, mặc, ở, hương tiệnsinh hoạt, bảo toàn nòi giống…; 2). Nhu cầu tinh thần (nhu cầu xã hội)chủyếu do tâm lý tạo nên nói lên bản chất xã hội của con người. Hứng thú : Hứng thú là sự xuất hiện sự chú ý đặc biệt của con người đến một đốitượng nào đó, là sự khao khát của con người muốn tiếp cận đến đối tượngnhu cầu để đi sâu tìm hiểu. Hứng thú là biểu hiện của xu hướng về mặt nhận thức của cá nhân đốivới sự vật và hiện tượng xung quanh. Hứng thú giúp cho con ngườI hăng saylàm việc, quên mệt mỏi, là một nhân tố kích thích hoạt động của con người,kích thích khả năng tìm tòi sáng tạo. Muốn cho nhân viên có hứng thú làm việc phải: – Nêu được ý nghĩa, tầm quan trọng, lợi ích của công việc đối vớicông ty và với bản thân họ. – Làm cho họ hiểu rõ cách thức thực hiện công việc đó. Thế giới quan: Thế giới quan là hệ thống quan điểm của cá nhân về tự nhiên, xã hộIvà bản thân, xác định phương châm hành động của người ấy. Nó quyết địnhnhững phẩm chất và phương hướng phát triển của nhân cách. Lý tưởng: Lý tưởng “ Chính là cái mà vì nó người ta sống, dưới ánh sáng củanó người ta hiểu được ý nghĩa của cuộc đời mình”. 17 Lý tưởng là mục tiêu cao đẹp, mẫu mực và hoàn chỉnh có tác động lôicuốn mạnh mẽ toàn bộ cuộc sống của cá nhân trong suốt thời gian dài hoặccả đời người. Lý tưởng là sự hoà hợp của các hoạt động nhận thức, tình cảmvà ý chí. Lý tưởng vừa có tính hiện thực, vừa có tính lãng mạn, lại mang tínhlịch sử xã hội và tính giai cấp. a. Năng lực: Năng lực là khả năng của cá nhân có thể thực hiện một hoạt động nàođó, làm cho hoạt động ấy đạt đến một kết quả nhất định. Năng lực được hình thành , thể hiện và phát triển trong hoạt động. Nóchỉ tồn tại trong mối quan hệ với một hoạt động nhất định. Khi đánh giá năng lực của một người, cần chú ý đến nhiều yếu tố baogồm: • Các yếu tố để tạo thành năng lực: o Các yếu tố thuộc sinh lý, cơ thể bẩm sinh o Sự giáo dục mà họ được hưởng o Kinh nghiệm và sự từng trải của họ o Sự rèn luyện, tập luyện, sự chuyên cần, chăm chỉ…Những phẩmchất ý chí… • Các yếu tố trực tiếp trong hoạt động của họ: o Con đường đi tới kết quả công việc là con đường nào? (cách thức,tính độc lập, độc đáo, tính sáng tạo, khoa học…) o Hiệu suất công việc (thời gian, sức lực và tiền bạc, nguyên vậtliệu…) o Kết quả: mức độ đạt tới về chất lượng, số lượng. Trong phân công công tác cho một cá nhân, nếu hợp với năng lực củahọ, tạo điều kiện cho họ phát huy tối đa năng lực của mình thì kết quả sẽ rấttốt. Người lãnh đạo giỏi là người lãh đạo nhìn thấu cả năng lực còn chưa bộc 18phát của nhân viên để giao công việc cho họ khiến họ phát huy được nănglực của mình. b. Tính cách: Tính cách là một tổng hợp những thuộc tính tâm lý đặc trưng của cánhân, phản ánh mối quan hệ của cá nhân với hiện thực và biểu hiện ở nhữnghành vi, cử chỉ, cách nói năng của cá nhân đó. Tính cách biểu hiện mặt xã hội của con người. Tính cách của mỗi cánhân được hình thành dần trong quá trình xã hội hoá, tính cách do giáo dụcvà do học tập mà hình thành. Tính cách luôn có hai mặt nội dung và hình thức. Nội dung là hệ thống thái độ bên trong của cá nhân đối với hiện thựcnhư là đối với xã hội, đối với lao động, đối với bản thân, đối với tàisản…Thái độ đối với xã hội phản ánh mối quan hệ giữa cá nhân với tổ chức,với mọi người xung quanh, nó thể hiện tình yêu thương, tôn trọng, lòng tậntụy…hay sự ghét bỏ, thù hằn, khinh miệt, hờ hững…tinh thần hy sinh vì mọingười, vì lợi ích chung…; Thái độ đối với lao động là ý thức tổ chức, kỷluật, tính yêu lao động, cần cù, tận tâm…; Thái độ đối với bản thân là nhữngđánh giá suy xét về bản thân mình, những yêu cầu, mục đích đặt ra để thựchiện trong cuộc sống hàng ngày thể hiện ở lòng tự trọng, tính khiêm tốn, tínhtự hào…; Đối với tài sản thể hiện ở cẩu thả hay không cẩu thả, hoang phíhay tiết kiệm… Hình thức là sự biểu hiện ra bên ngoài của hệ thống thái độ của cánhân trong những hành vi xã hội, thể hiện ở hành vi, cử chỉ, cách nói năng. Nội dung và hình thức của tính cách được xét theo chuẩn mực đạođức xã hội thì được phân thành tốt xấu. Khi xét đến sự đồng nhất giữa nội dung và hình thức sẽ tọ ra 4 kiểutính cách: 19

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *