Các thị trường nợ ngắn hạn có tác động trực tiếp đến việc vay và cho vay, từ đó ảnh hưởng tới phân tích đầu tư. Bằng cách chiết khấu các khoản đầu tư tiềm năng, thị trường tiền tệ có thể giúp ta xác định tỷ suất lợi nhuận thay thế, nhờ đó nhà đầu tư có thể so sánh các lựa chọn với nhau.
Đang xem: Holding period return là gì
Thị trường nợ có nhiều cách biểu diễn và tính toán lợi tức đầu tư khác nhau. Việc xác định lợi tức khá dễ hiểu đối với các khoản đầu tư thông thường, nhưng sẽ phức tạp hơn một chút với các công cụ nợ tinh vi. Hãy lấy trái phiếu kho bạc Mỹ (T-Bills) làm ví dụ. Mỹ phát hành nợ tới các nhà đầu tư và xác định một khoản tiền cụ thể sẽ được trả khi đáo hạn, được gọi là mệnh giá. Để xác định tỷ suất lợi nhuận, bạn cần phải tính đến chi phí để mua trái phiếu. Sự chênh lệch giữa chi phí và mệnh giá được gọi là chiết khấu (discount). Tuy nhiên, khoảng thời gian không phải lúc nào cũng là một năm, nó có thể là một vài ngày hoặc một vài tháng. Điều này khiến cho việc tính toán trở nên phức tạp hơn. Các loại lợi tức khác nhau sử dụng quy ước khác nhau để chuyển đổi khoảng thời gian ra năm. Vì vậy, bạn cần phải so sánh mệnh giá với số tiền được trả và chuyển đổi lợi tức trong khoảng thời gian đó thành lợi tức của một năm.
Có bốn loại lợi tức chính mà chúng ta sẽ đề cập đến. Dựa vào đó, bạn có thể xác định được các cách tính tỷ suất lợi nhuận khác nhau: lợi tức chiết khấu ngân hàng – bank discount yield (còn được gọi là cơ sở chiết khấu ngân hàng – bank discount basis), lợi tức trong khoảng thời gian nắm giữ (holding period yield), lợi tức hiệu dụng năm (effective annual yield) và lợi tức thị trường tiền tệ (money market yield).
Cơ Sở Chiết Khấu Ngân Hàng
Trái phiếu kho bạc được niêm yết giá đơn thuần dựa trên cơ sở chiết khấu, có nghĩa là nó nêu rõ tổng số tiền sẽ được trả khi đáo hạn, và nhà đầu tư trả giá thấp hơn. Sự chênh lệch giữa hai con số (giá trị chiết khấu) chính là lợi nhuận. Tuy nhiên, để tính được lợi tức, khoản chênh lệch đó phải được chuyển đổi sang tỷ lệ phần trăm hàng năm.
Trong trường hợp này, công thức tính lợi tức chỉ đơn giản là khoản chiết khấu chia cho mệnh giá, nhân với 360 và sau đó chia cho số ngày còn lại đến khi đáo hạn.
Lợi tức hàng năm trên cơ sở chiết khấu ngân hàng =
Trong đó:
D( discount) = Giá trị chiết khấu
F (Face value)= Mệnh giá
T(Number of days until maturity ) = Số ngày đến khi đáo hạn
Ví dụ, Joe mua một trái phiếu kho bạc với mệnh giá 100.000 đô la và chỉ phải trả 97.000 đô la. Trái phiếu đáo hạn trong vòng 279 ngày. Lợi tức chiết khấu ngân hàng là bao nhiêu?
Lợi tức chiết khấu ngân hàng = (D/F) x (360/t)
= (3.000 /100.000) x (360/279)
= 0,0387
= 3,9%
Tuy nhiên, có một vài vấn đề trong việc sử dụng cách tính lợi tức hàng năm này để xác định lợi nhuận của bạn. Ví dụ, giá trị lợi tức này coi một năm là 360 ngày để tính lợi nhuận nhà đầu tư sẽ nhận được. Ngoài ra, nó không tính đến tiềm năng từ tỷ suất lợi nhuận kép, và giả định rằng bạn không có lựa chọn đầu tư nào khác.
Ba cách tính toán lợi tức còn lại khá phổ biến và biểu hiện lợi suất đầu tư rõ ràng hơn.
Lợi Tức Trong Khoảng Thời Gian Nắm Giữ
Theo định nghĩa, lợi tức trong khoảng thời gian nắm giữ chỉ được tính trên cơ sở thời gian nắm giữ. Vì vậy, không cần thiết phải xác định số ngày như trong công thức tính lợi tức chiết khấu ngân hàng. Cách tính này rất đơn giản. Bạn lấy giá trị tăng thêm sau đầu tư, cộng thêm các khoản thanh toán lãi hoặc cổ tức và chia cho giá mà bạn mua. Lợi nhuận này chưa được quy đổi thành lợi nhuận một năm, đây chính là sự khác biệt so với hầu hết các cách tính lợi nhuận khác dựa trên cơ sở thời gian hàng năm. Ngoài ra, các khoản lãi hay tiền giải ngân được giả định sẽ thanh toán tại thời điểm đáo hạn.
Xem thêm: Cau 9 – Khái Niệm Giai Cấp Công Nhân
Trong đó:
P1= số tiền nhận được khi đáo hạn
P0= giá mua của khoản đầu tư
D1= tiền lãi nhận được hoặc số tiền được trả vào ngày đáo hạn
Lợi Tức Hiệu Dụng Năm
Lợi tức hiệu dụng năm có thể cung cấp cách tính lợi tức chính xác hơn, đặc biệt là khi có sẵn các cơ hội đầu tư thay thế áp dụng việc tính lãi kép. Lãi kép chính là lãi thu được từ lãi.
Trong đó:
HPY(holding period yield ) = lợi tức trong khoảng thời gian đầu tư
t( number of days held until maturity )= số ngày được tính đến thời điểm đáo hạn
Ví dụ, nếu HPY là 3,87% trong 279 ngày thì EAY sẽ là 1,0387365/279-1 tương đương 5,09%
Tần suất ghép lãi áp dụng cho các khoản đầu tư rất quan trọng và có thể tạo ra thay đổi lớn đối với kết quả đầu tư của bạn. Đối với khoảng thời gian dài hơn một năm, ta vẫn có thể dùng cách tính này và kết quả sẽ là một số tuyệt đối nhỏ hơn HPY.
Ví dụ, nếu HPY là 3,87% trong 579 ngày thì EAY sẽ là 1,0387365/579-1 tương đương 2,42%.
Trường Hợp Khoản Đầu Tư Giảm Giá Trị
Đối với các trường hợp thua lỗ, cách tính này vẫn không thay đổi; lỗ trong thời gian nắm giữ cần được cho vào khi tính lợi tức hiệu dụng năm. Bạn vẫn cộng một với HPY (bây giờ là một số âm), ví dụ 1 + (-0,5) = 0,95.
Ví dụ, nếu HPY lỗ 5% trong 180 ngày thì EAY sẽ là 0.95365/180-1 tương đương -9,88%.
Lợi Tức Thị Trường Tiền Tệ
Lợi tức thị trường tiền tệ còn được gọi là lợi tức tương đương chứng chỉ tiền gửi (CD-equivalent yield) và đây là cách thứ tư để tính lợi tức. Cách tính này cho phép ta so sánh lợi tức được viết trên trái phiếu kho bạc với lãi từ một công cụ thị trường tiền tệ. Những khoản đầu tư này có thời hạn (thường là ngắn hạn), và được phân loại như các khoản tương đương tiền. Công cụ thị trường tiền tệ niêm yết giá trên cơ sở 360 ngày, vì vậy lợi tức thị trường tiền tệ cũng sử dụng số 360 trong tính toán.
Xem thêm: Nguyên Tắc Trích Lập Dự Phòng Là Gì ? Phương Pháp Trích Lập Quỹ Dự Phòng
Trong đó:
YBD(yield on a bank discount basis calculated earlier )= lợi tức trên cơ sở chiết khấu ngân hàng đã tính trước đó
t(days held until maturity ) = số ngày được tính đến thời điểm đáo hạn
Lời Kết
Việc tính toán các loại lợi tức khác nhau có thể gây nhầm lẫn bởi chúng khá giống nhau. Lợi nhuận được biểu diễn bằng nhiều cách trong thị trường nợ, và chúng ta có thể sử dụng những cách tính đó để xác định lợi tức. Sau khi tính được, lợi tức từ các thị trường nợ ngắn hạn có thể được sử dụng khi chiết khấu các dòng tiền. Trong ngắn hạn, các tổ chức có thể huy động tiền mặt hoặc đầu tư dựa trên những tỷ suất này. Và cũng giống như bất kỳ khoản đầu tư nào, lợi nhuận cần phản ánh các rủi ro; rủi ro càng thấp thì lợi nhuận cũng càng thấp.